Thứ Sáu, 30 tháng 1, 2015

BẤT NGỜ VỚI LỢI ÍCH CỦA CÁI ÔM

0
Lợi ích của cái ôm
Theo nghiên cứu mới xuất bản trên Psychological Science, cái ôm giúp giảm thiểu những tác hại nghiêm trọng của stress lên cơ thể.
Hành động ôm có tác dụng như một sự trợ giúp xã hội, giúp bảo vệ con người trước lây nhiễm bệnh tật và thậm chí có thể giảm thiểu các triệu chứng nếu bạn mắc bệnh.
Nghiên cứu khảo sát 404 người trưởng thành khỏe mạnh về mức độ hỗ trợ xã hội mà họ cho là mình được nhận từ những người xung quanh (Cohen et al., 2014).

Nghiệm thể cũng được hỏi về tần suất họ được ôm và mức độ thường xuyên họ gặp mâu thuẫn với người khác.

Sau đó, những người tham gia bị cho phơi nhiễm với virus gây cảm trong phòng thí nghiệm (mỗi nghiệm thể được trả 1000 USD để làm việc này)
Tình trạng của họ được kiểm soát trong môi trường cách li nhằm theo dõi xem liệu họ có mắc bệnh hay không và các triệu chứng có mức độ nghiêm trọng như thế nào.
Giáo sư Sheldon Cohen, người đứng đầu nghiên cứu, giải thích:
“Chúng ta biết rằng những người đang có nhiều mâu thuẫn với người xung quanh thường ít có khả năng chống trả lại virus gây cảm.
Chúng ta cũng biết rằng những người cảm nhận mình nhận được nhiều sự hỗ trợ từ xã hội sẽ được bảo vệ một phần khỏi những tác động của stress lên các trạng thái tâm lý, như trầm cảm hay lo âu.
Tương tự, chúng tôi kiểm tra xem liệu nhận thức về hỗ trợ xã hội có giúp bảo vệ chúng ta khỏi khả năng dễ lây nhiễm do stress tạo ra hay không, đồng thời liệu việc được ôm có góp phần nâng cao cảm giác được hỗ trợ và giúp con người phòng tránh bệnh tật?”
Kết quả cho thấy những người được ôm thường xuyên hay những người cho rằng mình được nhận nhiều hỗ trợ xã hội ít có khả năng mắc bệnh cảm nhất. 
Về phía những người bị bệnh, những nghiệm thể được ôm và cảm nhận nhiều hỗ trợ xã hội hơn cũng sẽ ít có những triệu chứng nghiêm trọng hơn.
Giáo sư Cohen cho biết:
“Điều này cho thấy việc nhận một vòng tay từ người bạn tin cậy có thể trở thành công cụ thể hiện sự tương trợ hữu hiệu, đồng thời việc tăng tần suất được ôm cũng là cách giảm thiểu hiệu quả những tác động gây hại của stress.
Hiệu quả bảo vệ của cái ôm có thể đến từ bản thân việc tiếp xúc thể lý hay đến từ việc hành động đó trở thành một chỉ báo hành vi về sự hỗ trợ tình thân ái.
Dù là nguyên nhân nào, những người được ôm nhiều cũng sẽ được bào vệ tốt hơn khỏi lây nhiễm bệnh tật.”


Đọc tiếp

Thứ Tư, 28 tháng 1, 2015

VÌ SAO KHI NHẬU, ĐÀN ÔNG DỄ “CƯỜI”

0
Tại sao đàn ông thích nhậu?
Rachel Feltman 30/09/2014  

Theo một
nghiên cứu trên Clinical Psychological Science, khi “chén anh chén em”, nụ cười ở đàn ông bắt đầu dễ lây lan hơn. Điều này có thể giải thích cho việc tại sao đàn ông thích “ăn nhậu” quá mức hơn phụ nữ - vì họ thấy vui hơn.

Con người và một số động vật có hiện tượng “lây lan cảm xúc”. Tuy không nhận ra, trạng thái cảm xúc của bạn có thể bị ảnh hưởng bởi nét mặt và những dấu hiệu từ người bạn tương tác. Nếu ai đó cười với bạn một cách chân thực, bạn thường dễ “bị lây nhiễm” bởi nụ cười đó – đặc biệt nếu họ là bạn thân hay thành viên trong gia đình.

Chúng ta thường sử dụng rượu bia như “nhớt bôi trơn” cho giao tiếp xã hội. Để kiếm chứng ý kiến này, các nhà nghiên cứu chia 720 người tham gia khỏe mạnh, không nghiện rượu bia, thành những nhóm 3 người – mỗi nhóm sẽ được chỉ định uống vodka cranberry, nước giải khát không cồn, hay một loại thức uống “giả dược” (không có cồn, nhưng có một lớp mỏng vodka bên trong ly). Mỗi nhóm sẽ được giới thiệu và phục vụ đồ uống như trên vào từng khoản thời gian định kỳ.

Các nhà nghiên cứu muốn kiểm tra xem mức độ những người lạ mặt này gắn kết xã hội với nhau như thế nào. Nhóm nghiên cứu tìm kiếm những nụ cười chân thật (trái ngược với những nụ cười xã giao, rất dễ bị phát hiện khi quay phim lại) đồng thời quan sát các nghiệm thể chuyển cuộc nói chuyện từ người này sang người kia nhanh như thế nào.
Khi có sự hiện diện của cồn, người tham gia sẵn sàng “đáp trả” nụ cười hơn – tuy nhiên chỉ với những nhóm toàn đàn ông. Trong các nhóm toàn phụ nữ hay trộn lẫn, cồn không tạo ra nụ cười nhiều hơn thức uống không cồn và thức uống “giả dược”. Thế nhưng, trong nhóm toàn phụ nữ “tỉnh táo”, nụ cười dễ lây lan hơn so với nhóm đàn ông không dùng chất có cồn. Điều này cho thấy, đàn ông cần phải tăng lượng cồn trong máu để trở nên quảng giao và thân thiện như phụ nữ trong khi tỉnh táo.
Chủ nhiệm nghiên cứu và là nghiên cứu sinh tại ĐH Pittsburg Catharine Fairbain cho biết, mối nguy hiểm nằm ở chỗ phn lớn mọi người nghĩ rằng “giao tiếp bia rượu” là vô hại. Tuy nhiên, do đàn ông càng uống càng thích thú với cuộc trò chuyện nên kiểu giao tiếp này có thể trở thành thói quen say xỉn rất nguy hiểm.
http://www.washingtonpost.com/news/speaking-of-science/wp/2014/09/30/when-men-drink-their-smiles-get-more-contagious/
Đọc tiếp

Thứ Hai, 26 tháng 1, 2015

LỢI ÍCH CỦA BỮA ĂN GIA ĐÌNH

0

Anne Fishel,
Giáo sư Tâm lý Lâm sàng, ĐH Y Harvard
Là một nhà trị liệu gia đình, tôi thường có xu hướng muốn đề nghị các gia đình hãy về nhà, dùng bữa chung, thay vì ngồi với tôi hàng tiếng đồng hồ. Và 20 năm kinh nghiệm nghiên cứu trên khắp Bắc Mỹ, Châu Âu và Úc Châu cũng ủng hộ ý kiến đó. Hóa ra việc ngồi xuống ăn chung chẳng những tốt cho tinh thần, tâm lý mà còn có lợi cho não bộ và cơ thể. Hơn nữa, một bữa ăn như vậy chẳng cần phải là yến tịệc thịnh soạn cũng chẳng cần cao lương mỹ vị.    
Khai vị cho não bộ
Các nhà nghiên cứu tìm ra rằng đối với trẻ nhỏ, trò chuyện vào bữa ăn giúp nâng cao vốn từ vựng nhiều hơn cách đọc sách cho các em. Họ đếm số từ ít gặp – những từ không có trong danh sách 3000 từ thông dụng – mà gia đình sử dụng trong bữa tối. Trẻ nhỏ học được khoảng 1000 từ lạ trên bàn ăn, so với chỉ 143 từ từ những câu chuyện cha mẹ đọc. Những trẻ có vốn từ vựng phong phú sẽ biết đọc sớm và dễ dàng hơn.
Trẻ lớn cũng được hưởng lợi từ bữa ăn gia đình ban tối. Với các em tiểu học, số giờ ăn cơm chung đều đặn là chỉ báo kết quả học tập còn chính xác hơn thời gian ngồi tại lớp, làm bài tập, chơi thể thao hay tham gia nghệ thuật.
Các nhà khoa học khác còn cho thấy mối liên hệ ổn định giữa tần suất cơm tối gia đình và khả năng học thuật nơi trẻ vị thành niên. Những thiếu niên ăn cơm tối chung với gia đình từ 5 đến 7 lần một tuần có gấp đôi khả năng được điểm tốt so với những bạn chỉ ăn tối với gia đình ít hơn 2 lần một tuần.
Bữa chính cho sức khỏe
Trẻ ăn cơm tối đều đặn với gia đình ăn trái cây, rau củ, hấp thụ vitamin và dinh dưỡng nhiều hơn, đồng thời ít đụng đến thức ăn chiên xào và nước ngọt hơn. Thậm chí những lợi ích dinh dưỡng vẫn tiếp tục trải dài sau khi trẻ đã lớn: thanh niên dùng bữa với gia đình thường xuyên như còn lúc vị thành niên ít có khả năng béo phì và thường sử dụng thức ăn tốt cho sức khỏe nhiều hơn khi tự sống một mình.
Một số nghiên cứu thậm chí còn cho thấy mối liên hệ giữa cơm tối gia đình và việc giảm thiểu các triệu chứng trong rối loạn y khoa, ví dụ như hen suyễn. Ich lợi này có thể bắt nguồn từ hai “dinh dưỡng” của bữa cơm chung: giảm lo âu và theo dõi việc sử dụng thuốc của trẻ.
Không chỉ có thực phẩm lành mạnh là nguyên nhân của những ích lợi trên. Không khí bữa ăn cũng rất quan trọng. Thay vì khắt khe và kiểm soát, cha mẹ cần ấm áp và hòa đồng để cổ vũ việc ăn uống lành mạnh nơi trẻ.
Tuy nhiên, tất cả những điểm tốt sẽ bay biến nếu có mặt TV. Trong một nghiên cứu, những trẻ mẫu giáo xem TV trong bữa tối thường sẽ bị béo phì vào lúc các em vào lớp 3. Mối liên hệ giữa việc xem TV trong bữa tối và thừa cân ở trẻ em cũng được báo cáo tại Thụy Điển, Phần Lan và Bồ Đào Nha.
Tráng miệng cho tâm hồn
Một lượng lớn các nghiên cứu chỉ ra mối liên hệ giữa cơm tối chung đều đặn với việc giảm thiểu mức độ hành vi nguy cơ nơi trẻ vị thành niên: hút thuốc, say xỉn, sử dụng cần sa, bạo lực, vấn đề học đường, rối loạn ăn và quan hệ tình dục. Trong một nghiên cứu trên 5000 thiếu niên ở Minnesota (Hoa Kỳ), các nhà nghiên cứu phát hiện cơm tối chung thường xuyên liên hệ tới mức trầm cảm và ý nghĩ tự tử thấp. Trong nghiên cứu mới đây, những trẻ là nạn nhân của ăn hiếp trực tuyến phục hồi nhanh hơn nếu ăn tối thường xuyên với gia đình. Cơm tối gia đình còn được chứng minh là công cụ hữu hiệu hơn chống lại những hành vi nguy cơ nghiêm trọng nơi thiếu niên so với việc đi lễ nhà thờ hay đạt điểm tốt.
Ngoài ra, bên cạnh việc phòng ngừa các hành vi tiêu cực, còn có mối liên hệ giữa bữa tối gia đình đều đặn và những hành vi tích cực. Trong một nghiên cứu của New Zealand, tần suất bữa ăn gia đình cao có tương quan mạnh mẽ với tâm trạng tích cực nơi trẻ vị thành niên. Tương tự, các nhà nghiên cứu khác cũng chứng minh rằng trẻ ăn cơm thường xuyên với gia đình sẽ có cái nhìn về tương lai tích cc hơn so với những bạn cùng trang lứa.
Điều gì khiến bữa cơm trở nên thần kỳ như vậy?
Trong đa số các quốc gia công nghiệp, gia đình không làm ruộng, chơi nhạc hay đan chiếu trước thềm chung với nhau. Vì vậy, bữa cơm tối trở thành cách thức mọi người kết nối và tìm hiểu điều gì xảy ra với mỗi thành viên. Trong một khảo sát, trẻ vị thành niên Mỹ được hỏi các em thường nói chuyện với ba mẹ nhiều nhất vào lúc nào: bữa tối là câu trả lời có số lượng cao nhất. Trẻ ăn tối chung với gia đình ít căng thẳng và có mối quan hệ với cha mẹ tốt hơn. Bữa cơm chung trở thành dây an toàn cho chặng đường chông chênh của tuổi dậy thì, nơi nhiều hành vi nguy cơ có thể xảy đến.
Tất nhiên, sức mạnh thật sự của bữa cơm chung nằm ở chất lượng mối liên hệ liên cá nhân. Nếu các thành viên trong gia đình ngồi ăn trong im lặng, nếu cha mẹ cãi vả lẫn nhau hay mắng nhiếc con cái, bữa cơm chung sẽ chẳng thể đem lại bất kỳ ích lợi nào. Cùng nhau ăn một con gà quay không thể là liều thuốc tiên cho mối quan hệ cha mẹ – con cái. Tuy nhiên, bữa tối có thể trở thành thời điểm duy nhất trong ngày mà mọi người cùng nhau chia sẻ những trải nghiệm tích cực – một bữa cơm ngon, một câu nói vui hay một câu chuyện hay – những thời khắc bé nhỏ này có thể trở thành ý nghĩa và tạo ra những nối kết vượt ra ngoài bữa ăn giản dị.

Đọc tiếp

Thứ Bảy, 24 tháng 1, 2015

VÌ SAO SỐNG TỬ TẾ LẠI TỐT CHO BẠN?

0
Lòng nhân ái
Hàng nhiều thập kỷ nay, các nghiên cứu lâm sàng chỉ tập trung tìm hiểu tâm lý dưới khía cạnh những đau khổ của con người. Tuy nhiên, tương ứng với mặt tiêu cực, những khổ đau đó cũng có điểm sáng mà các nghiên cứu lại ít chú ý tới: sự tử tế, hay cụ thể hơn là lòng nhân ái (compassion). Khổ đau của con người thường đi kèm với những hành động tử tế cao đẹp của những người xung quanh, mong muốn hay tìm cách xoa dịu khó khăn đó. Điều gì khiến chúng ta sẵn sàng tham gia hoạt động tình nguyện (thống kê của Bộ Lao Động Mỹ cho thấy 26,5% dân số tham gia các hoạt động tình nguyện trong năm 2012)? Điều gì thúc đẩy chúng ta phục vụ người khác qua các bữa cơm thiện nguyện, nhà tình thương, cho đến việc sẵn sàng sửa xe hay chăm sóc những con vật lang thang?

Lòng Nhân ái là gì?

Lòng nhân ái là gì và nó khác thấu cảm (empathy) hay vị tha (altruism) như thế nào? Định nghĩa lòng nhân ái thường hay bị nhầm lẫn với thấu cảm. Thấu cảm, theo định nghĩa của các nhà nghiên cứu, là việc ta trải nghiệm cảm xúc hay thể lý cảm giác của người khác. Có thể xem nó như một hành động tự động phản ánh xúc cảm của người khác, như khi chúng ta khóc trước nỗi buồn của một người bạn thân. Lòng vị tha là hành động đem lại lợi ích cho người xung quanh (vị = vì, tha = tha nhân).  Nó có thể đi kèm hay thiếu vắng thấu cảm hoặc nhân ái, ví dụ những trường hợp quyên góp từ thiện để trốn thuế. Dù những thuật ngữ này có liên hệ đến lòng nhân ái, chúng lại không tương đương nhau.
Lòng nhân ái hay sự tử tế thường bao gồm việc đáp trả một cách thấu hiểu cùng một hành vi vị tha. Lòng nhân ái – sự tử tế được định nghĩa là một đáp ứng cảm xúc khi ta nhận thấy những đau khổ, đồng thời đi kèm là mong muốn giúp đỡ cách chân thành.

Lòng nhân ái là phản ứng bẩm sinh hay được học tập?
Mặc cho sự chống đối của các nhà kinh tế, một lượng lớn các bằng chứng hiện cho thấy cả con người và động vật đều có một “bản năng nhân ái” từ ở trong xương tủy, thuật ngữ này được nhà nghiên cứu Dacher Keltner thuộc ĐH California, Berkeley sử dụng. Nói cách khác, lòng nhân ái là một phản xạ tự nhiên và tự động giúp đảm bảo sự sinh tồn của chúng ta. Nghiên cứu được thực hiện bởi Jean Docety thuộc ĐH Chicago cho thấy, ngay cả chuột cũng có xu hướng đồng cảm với đồng loại đang đau khổ, đồng thời sẵn sàng giúp đỡ đồng loại ra khỏi cảnh khó khăn. Các nghiên cứu trên tinh tinh và trẻ nhỏ chưa có khả năng học phép lịch sự cũng ủng hộ nhận định trên. Michael Tomasello cùng các nhà nghiên cứu khác tại Viện Max Planck, Đức, đã phát hiện trẻ sơ sinh và tinh tinh tự động thực hiện các hành vi giúp đỡ và thậm chí còn vượt qua các trở ngại để thực hiện điều này. Hành động này có vẻ bắt nguồn từ động lực bẩm sinh, không kỳ vọng nhận được bất kỳ phần thưởng gì.
Một nghiên cứu cho thấy đường kính đồng tử (dùng để đo khả năng chú ý) của trẻ sơ sinh giảm khi các em giúp đỡ hay thấy một người được giúp đỡ. Điều này chứng minh việc các bé giúp người khác không phải chỉ vì phần thưởng. Có vẻ như bản thân việc đau khổ được xoa dịu đã là một phần thưởng – dù các bé có tự mình tham gia trợ giúp hay không. Các nghiên cứu mới đây của David Rand thuộc ĐH Harvard cho thấy xung năng đầu tiên xuất hiện ở cả người lớn và trẻ nhỏ là hỗ trợ người khác. Nghiên cứu của Dale Miller, ĐH Cao học Kinh doanh Stanford cũng chứng minh điều này có diễn ra ở người trưởng thành, tuy nhiên, chính việc lo ngại người khác nghĩ rằng mình đang hành động vì tư lợi có thể ngăn cản xung năng giúp đỡ này nơi họ.
Việc lòng nhân ái là một xu hướng tự nhiên hoàn toàn chẳng kì lạ vì nó tự thân rất quan trọng đối với sự sinh tồn của con người. Được chứng minh bởi Keltner, thuật ngữ “sự sinh tồn của giống loài thích nghi nhất”, thuật ngữ hay được gán cho Charles Darwin, thật ra được tạo thành bởi Herbert Spencer và cùng với những người theo trường phái Darwin xã hội, những người mong muốn lý giải cho sự vượt trội cùa tầng lớp và chủng tộc. Một sự thật ít được nhắc đến khác là việc công trình của Darwin được mô tả chính xác nhất bằng phát biểu “sự sinh tồn của giống loài tốt bụng nhất”. Thật vậy, trong The Descent of Man và Selection In Relation to Sex, Darwin cho rằng con người có “một sức mạnh bản năng xã hội và mẫu tử lớn lao hơn bất kỳ bản năng hay động lực nào”. Trong một đoạn khác, ông bình luận “các cộng đồng, trong đó bao gồm lượng lớn những thành viên đồng cảm nhất, sẽ phát triển và nuôi dạy con tốt nhất”. Lòng nhân ái – sự tử tế thật sự có thể là một đặc điểm thích ứng và tiên hóa tự nhiên. Không có nó, sự tồn tại nảy nở của nhân loại khó có thể xảy ra.
Một dấu hiệu nữa cho thấy lòng nhân ái là một nét tiến hóa thích ứng là việc nó khiến ta trở nên hấp dẫn hơn đối với “đối tác” tiềm năng. Một nghiên cứu kiểm chứng đặc điểm được đánh giá cao nhất nơi đối tác lãng mạn tiềm năng có kết quả cho thấy cả nam và nữ đều đồng ý rằng “sự tử tế” là một trong những nét lý tưởng nhất.

Những ích lợi bất ngờ của Lòng Nhân ái đối với sức khỏe Thể lý và Tâm lý

Lòng nhân ái có thể giúp đảm bảo cho sự tồn vong của chúng ta vì nó đem lại sức khỏe thể lý và tinh thần, đồng thời mang đến hạnh phúc tổng thể. Nghiên cứu của APS William, nhà nghiên cứu hàng đầu về tâm lý học tích cực và APS James McKeen Cattell Fellow Martin Seligman, người đi tiên phong trong tâm lý học về hạnh phúc và thăng tiến con người, cho rằng việc kết nối với người khác theo một cách có ý nghĩa sẽ giúp chúng ta có nhiều sức khỏe thể lý và tinh thần, đồng thời thúc đẩy tiến trình hồi phục sau khi ngã bệnh; Hơn thế, nghiên cứu của Stephanie Brown, thuộc ĐH Stony Brook, và Sara Konrath, ĐH Michigan, cho thấy nó thậm chí còn có thể kéo dài tuổi thọ con người. Nguyên nhân của việc sống tử tế dẫn đến hạnh phúc tinh thần có thể được giải thích bởi thông tin cho rằng hành động cho đi mang lại cảm giác dễ chịu nhiều hơn hoặc bằng chính hành động lãnh nhận. Một nghiên cứu chụp hình não do nhà khoa học thần kinh Jordan Grafman thuộc Viện Sức khỏe Quốc gia cho thấy, khi chúng ta quan sát ai đó làm từ thiện, cũng như khi chúng ta tự đóng góp tiền, “trung khu hài lòng” trong não bộ sẽ được kích hoạt tương đương khi ta trải nghiệm sự thích thú (như khi ăn tráng miệng, tiền bạc, và tình dục).
Việc cho đi thậm chí còn làm tăng mức độ hạnh phúc nhiều hơn khi chúng ta chi tiêu cho chính mình. Trong một thực nghiệm của Elizabeth Dunn tại ĐH British Columbia được công bố trên tạp chí Science, các nghiệm thể được nhận một khoản tiền nhất định, một nửa trong nhóm được yêu cầu chi tiêu cho bản thân họ; những người tham gia còn lại được chỉ định sử dụng tiền cho người khác. Vào cuối nghiên cứu, nhóm thứ hai cho thấy cảm giác hạnh phúc nhiều hơn nhóm chỉ chi tiền cho chính mình.
Điều này thậm chí vẫn đúng đối với trường hợp trẻ nhỏ. Một nghiên cứu được thực hiện bởi Lara Aknin và cộng sự tại ĐH British Columbia trên trẻ hai tuổi cho thấy việc trẻ tặng quà cho trẻ khác làm tăng mức độ hạnh phúc nhiều hơn khi trẻ nhận quà cho riêng mình. Thậm chí còn bất ngờ hơn, hiện tượng “cho đi để hạnh phúc” này đúng trên toàn thế giới, bất kể các quốc gia giàu nghèo ra sao. Một nghiên cứu khác của Aknin, nhưng tại ĐH Simon Fraser, cho thấy số tiền ta dành cho người khác (chứ không phải cho bản thân) và hạnh phúc cá nhân có tương quan chặt chẽ với nhau, bất kể thu nhập, điều kiện hỗ trợ xã hội, cảm nhận về tự do hay tình trạng tham nhũng của đất nước.

Tại sao sống tử tế lại tốt cho bạn?

Tại sao sống tử tế lại đặc biệt tốt cho sức khỏe? Manh mối cho câu trả lời này nằm ở một nghiên cứu mới do Steve Cole, ĐH California Los Angeles, cùng APS Fellow Barbara Fredrickson, ĐH North Carolina Chapel Hill, thực hiện. Nghiên cứu lượng giá mức độ viêm nhiễm phân tử nơi những người tự cho rằng mình “rất hạnh phúc”. Viêm (Inflammation) là gốc rễ của ung thư và những bệnh tật khác, nó cũng xuất hiện nhiều nơi những người thường xuyên căng thẳng. Như vậy, chúng ta có thể nghĩ rằng khả năng viêm sẽ ít hơn nơi những người có mức hạnh phúc cao. Tuy nhiên, Cole và Fredrickson phát hiện điều này chỉ xảy ra trong những trường hợp “rất hạnh phúc”. Họ nhận thấy những người hạnh phúc vì có “cuộc sống đầy đủ” (đôi khi hiểu là “hạnh phúc hưởng thụ”) có mức viêm cao trong khi những người hạnh phúc vì sống cuộc sống có mục đích hay ý nghĩa (“hạnh phúc viên mãn”) có mức viêm thấp. Một cuộc sống có ý nghĩa và mục đích là cuộc sống ít tập trung vào việc thỏa mãn bản thân nhưng dành nhiều hơn cho người xung quanh. Đó là sống nhân ái, vị tha và đầy ý nghĩa.
Lối sống tử tế còn giúp tăng tuổi thọ bằng cách hỗ trợ chống lại stress. Một nghiên cứu được thực hiện với mẫu lớn (trên 800 người) do Michael Poulin thuộc ĐH Buffalo đứng đầu cho thấy stress không giúp dự đoán tỉ lệ tử vong nơi những người hay giúp đỡ người khác, trong khi lại dự đoán được đối với nhóm không giúp đỡ. Một trong những lý do mà lòng nhân ái giúp bảo vệ chúng ta khỏi stress là cảm giác hài lòng. Thế nhưng, động lực lại đóng một vai trò quan trọng trong việc tiên đoán liệu lối sống nhân ái có đem lại tác động tích cực cho sức khỏe hay không. Sara Konrath, ĐH Michigan, phát hiện rằng những người tham gia tình nguyện sống lâu hơn những người không tham gia –  tuy nhiên chỉ khi lý do tham gia tình nguyện đến từ sự vị tha thay vì vị kỷ.
Một nguyên nhân khác khiến tử tế giúp thúc đẩy hạnh phúc là vì nó mở rộng tầm nhìn ra khỏi bản thân chúng ta. Nghiên cứu cho thấy trầm cảm và lo âu có liên hệ tới tình trạng tập trung quá mức vào bản thân, lo lắng đến “cái tôi, bản thân và chính mình”. Khi bạn làm điều gì đó cho người khác, tình trạng tập trung - bản thân sẽ chuyển thành tập trung - người khác. Nếu bạn nhớ lại những thời gian bạn cảm thấy buồn bã, bỗng nhiên một người bạn thân hay thành viên trong gia đình gọi cho bạn vì cần giúp đỡ khẩn cấp, tâm trạng âu sầu của bạn cũng có thể theo đó mà biến mất khi sự chú ý được chuyển vào việc giúp đỡ họ. Thay vì cảm thấy muộn phiền, bạn sẽ có đầy năng lượng để giúp đỡ; và trước khi nhận ra sự thay đổi này, bạn thậm chí còn có thể thấy thoải mái hơn và có thêm nhiều quan điểm mới về vấn đề trước đó.
Cuối cùng, lòng nhân ái còn giúp bạn hạnh phúc bằng cách làm tăng cảm giác kết nối với người khác. Một nghiên cứu cho thấy việc thiếu liên hệ xã hội gây nguy hiểm cho sức khỏe nhiều hơn cả béo phì, hút thuốc và cao huyết áp. Mặt khác, liên hệ xã hội tốt tăng 50% cơ hội kéo dài tuổi thọ. Kết nối xã hội giúp củng cố hệ miễn dịch (nghiên cứu của Cole cho thấy các gen chịu ảnh hưởng của liên hệ xã hội cũng giúp mã hóa chức năng miễn dịch và tình trạng viêm), tăng khả năng hồi phục trước bệnh tật và thậm chí kéo dài cuộc sống. Những người có cảm giác nối kết với người khác ở mức cao có mức lo âu và trầm cảm thấp hơn. Bên cạnh đó, các nghiên cứu cũng cho thấy họ có lòng tự trọng cao hơn, thấu hiểu người xung quanh hơn, đáng tin và có tinh thần hợp tác, đồng thời, như một hệ quả, mọi người cũng sẵn sàng tin tưởng và hợp tác với họ hơn. Vì vậy, kết nối xã hội giúp tạo ra một cung phản hồi tích cực về an nhiên xã hội, cảm xúc và thể lý. Tuy nhiên không may là những điều ngược lại cũng xảy ra với những người thiếu liên hệ xã hội. Kết nối xã hội thấp thường gắn với suy giảm sức khỏe tâm thể lý cũng như làm tăng khuynh hướng hành vi chống đối xã hội, điều này sẽ dẫn đến sự cô lập lớn hơn. Việc thực hiện lối sống tử tế cũng như xây dựng lòng nhân ái có thể giúp thúc đẩy khả năng kết nối xã hội và nâng cao sức khỏe tâm thể lý.


Tại sao Sự tử tế thật sự có khả năng thay đổi Thế giới

Mẹ Teresa 

Tại sao cuộc đời của những người như Mẹ Teresa, Martin Luther King, Jr., và Desmond Tutu lại truyền nhiều cảm hứng như vậy? Nghiên cứu do APS Fellow Jonathan Haidt, ĐH Virginia, thực hiện cho rằng việc chứng kiến một người giúp đỡ những người khác tạo ra một trạng thái “thăng hoa”. Bạn đã bao giờ xúc động khi chứng kiến một nghĩa cử tình thương và lòng nhân ái của ai đó chưa? Số liệu của Haidt cho thấy việc đó giúp ta thăng hoa và sau đó truyền cảm hứng để chúng ta hỗ trợ người khác – và đó có thể là nguồn lực nằm sau một chuỗi những phản ứng cho đi. Haidt đã chứng minh rằng các lãnh đạo doanh nghiệp thực hiện những hành vi hi sinh bản thân và đem lại hiệu ứng “thăng hoa” nơi nhân viên sẽ tạo ra nhiều ảnh hưởng hơn nơi người lao động – từ đó, cấp dưới sẽ trở nên cam kết hơn và đến lượt mình, có thể hành động tử tế hơn ở nơi làm việc. Thật vậy, sự tử tế có tính lan truyền. Các nhà khoa học xã hội James Fowler (ĐH California San Diego) và Nicholas Christakis (Harvard) đã chứng minh rằng điều đó: Hành động quảng đại và tốt bụng sẽ sản sinh ra nhiều sự độ lượng hơn trong một chuỗi phản ứng tử tế. Bạn có thể đã chứng kiến một trong những bản tin thời sự về chuỗi phản ứng xảy ra khi một người trả tiền cà phê cho người xếp hàng phía sau hoặc trả tiền thu phí xa lộ cho tài xế tiếp theo. Mọi người tiếp tục hành vi hào hiệp này trong vòng nhiều giờ đồng hồ. Hành động nhân ái của chúng ta cùng nâng mọi người lên và khiến tất cả đều hạnh phúc. Chúng ta có thể không nhận ra, nhưng bằng cách hỗ trợ mọi người, chúng ta cũng đang giúp đỡ chính bản thân mình; nghiên cứu của Fowler và Christakis cho thấy hạnh phúc có khả năng lan tỏa và rằng nếu những người xung quanh hạnh phúc, chúng ta cũng sẽ trở nên hạnh phúc.

Xây dựng Sự tử tế

Dù tử tế có vẻ là bản năng tiến hóa tự nhiên nhưng đôi khi cũng cần có một chút luyện tập. Một loạt các nghiên cứu chứng minh rằng nhiều phương pháp tập luyện lòng nhân ái và thiền định “yêu thương - tử tế” khác nhau, đa phần xuất phát từ truyền thống Phật giáo, có thể giúp xây dựng lòng nhân ái. Xây dựng lòng nhân ái có thể hình thành khá nhanh và không đòi hỏi hàng năm trời nghiên cứu. Trong một nghiên cứu của Cendri Hutcherson, Viện Công nghệ California, cùng tác giả thực hiện vào năm 2008, có sự tham gia của APS Fellow James Gross, Stanford, nhóm nghiên cứu tìm ra rằng chỉ 7 phút can thiệp là đủ để làm tăng cảm giác gần gũi và liên kết với mục tiêu thiền định trên cả phương diện tường minh lẫn những khía cạnh tiềm tàng mà những người tham gia không thể chủ động kiểm soát; điều này cho thấy cảm giác kết nối có thay đổi ở hạ tầng tâm lý. Fredrickson đã kiểm nghiệm phương pháp thiền định 9 tuần yêu thương - tử tế và phát hiện rằng những nghiệm thể tham gia can thiệp trải nghiệm những cảm xúc tích cực tăng dần mỗi ngày, giảm các triệu chứng trầm cảm và nâng cao mức độ hài lòng với cuộc sống. Một nhóm đứng đầu bởi Sheetal Reddy đã chứng minh phương pháp can thiệp lòng nhân ái giúp tăng hi vọng nơi trẻ nhỏ. Nhìn chung, nghiên cứu về các can thiệp tử tế cho thấy những tiến bộ về sức khỏe tâm lý, lòng nhân ái cùng kết nối xã hội.

Bên cạnh những khía cạnh trên, các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu liệu các can thiệp này có tác động gì lên hành vi hay không. APS Fellow Tania Singer cùng nhóm nghiên cứu tại Viện Max Planck đã thực hiện một nghiên cứu về những tác động của việc luyện tập sự tử tế lên các hành vi phù hợp với xã hội. Họ phát triển Trò chơi Xã hội Zurich. Không giống nhiều bài tập xã hội khác chỉ đo đặc các hành vi xã hội cá nhân được duy nhất một lần, chương trình này có khả năng đo đạc nhiều lần các hành vi trên. Singer phát hiện việc luyện tập tử tế dài ngày thật sự giúp tăng các hành vi ủng hộ xã hội trong trò chơi.
Thú vị hơn nữa, dạng thiền định xem ra kém quan trọng hơn bản thân hành vi thiền định. Condon, Miller, Desbordes, và DeSteno nhận thấy luyện tập thiền định 8 tuần, bất kể với loại thiền định gì (mindfulness hay nhân ái), khiến người tham gia hành động tử tế hơn đối với những người đang chịu đau khổ (như nhường ghế cho người phải chống nạng)
Cần có nhiều nghiên cứu hơn để hiểu chính xác cách thức luyện tập nhân ái giúp nâng cao hạnh phúc và khích lệ hành vi vị tha. Nghiên cứu của Antoine Lutz và APS William James Fellow Richard Davidson tại ĐH Wisconsin-Madison cho thấy, trong khi thiền định, người tham gia phát triển khả năng xử lý cảm xúc trong các vùng não liên hệ đến sự thấu hiểu khi phản ứng với tiếng khóc xúc động.
Một nghiên cứu thực hiện bởi Gaëlle Desbordes, BV Đa khoa Massachusetts, cho thấy cả luyện tập thiền định mindfulness và nhân ái đều làm giảm hoạt động của hạnh nhân khi phản ứng với những hình ảnh cảm xúc; điều này cho thấy thiền định nói chung có thể giúp cải thiện khả năng kiểm soát cảm xúc. Tuy vậy, thiền định nhân ái không giảm thiểu hoạt động hạnh nhân trước những hình ảnh con người đang chịu đau khổ, như vậy có thể nói thiền định nhân ái làm tăng khả năng đáp ứng của con người trước đau khổ.
CCARE, kết hợp với Thupten Jinpa – phiên dịch cá nhân của Đức Đạt Lai Lạt Ma - và một số nhà tâm lý học tại ĐH Stanford, đã phát triển một chương trình luyện tập nhân ái với tên gọi Chương trình Luyện tập Xây dựng Lòng Nhân ái. Nghiên cứu sơ bộ do Philippe Goldin đứng đầu cho thấy chương trình có hiệu quả trong việc giảm thiểu những rối loạn như lo âu xã hội và giúp nâng cao nhiều phương diện tử tế khác nhau. Bên cạnh việc huấn luyện cho hàng trăm thành viên cộng đồng và sinh viên Stanford có mong muốn tham gia, các tác giả cũng đang phát triển một chương trình đào tạo giảng viên.
Với tầm quan trọng của lòng nhân ái trong thế giới hôm nay cùng một bộ phận nghiên cứu về những ích lợi của sự tử tế lên sức khỏe và hạnh phúc, đây là lĩnh vực thu hút nhiều sự quan tâm và có tác động lên cộng đồng. CCARE hi vọng thông qua những nghiên cứu kỹ lưỡng về những ích lợi của sự tử tế, mọi người sẽ nhận thấy việc sống tử tế cũng quan trọng đối với sức khỏe như tập thể dục hay chế độ ăn uống lành mạnh; đem lại những kỹ thuật xây dựng lòng nhân ái được minh chứng khoa học và chấp nhận rộng rãi; đồng thời lòng nhân ái sẽ được giảng dạy và ứng dụng trong trường học, bệnh viện, nhà tù, quân đội và những môi trường cộng đồng khác.

Để có thêm thông tin, xin vào thăm trang web của Emma Seppala: www.emmasepalla.com.

Tài liệu tham khảo và đọc thêm:
Aknin, L. B., Hamlin, J., & Dunn, E. W. (2012). Giving leads to happiness in young children. PLOS ONE, 7.
Aknin, L. B., Barrington-Leigh, C. P., Dunn, E. W., Helliwell, J. F., Burns, J., Biswas-Diener, R., Kemeza, I., Nyende, P., Ashton-James, C. E., & Norton, M. I. (in press). Prosocial spending and well-being: Cross-cultural evidence for a psychological universal. Journal of Personality and Social Psychology.
Algoe, S. B., & Haidt, J. (2009). Witnessing excellence in action: The ‘other-praising’ emotions of elevation, gratitude, and admiration. The Journal of Positive Psychology, 4, 105–127.
Baumeister, R. F., & Leary, M. R. (1995). The need to belong: Desire for interpersonal attachments as a fundamental human motivation. Psychological Bulletin, 117, 497–529.
Brown, S. L., Nesse, R. M., Vinokur, A. D., & Smith, D. M. (2003). Providing social support may be more beneficial than receiving it: Results from a prospective study of mortality. Psychological Science, 14, 320–327.
Burton, N. (2011, May). Romance report: Most men and women believe in the enduring power of attraction. Retrieved from http://glo.msn.com/relationships/romance-report-1534241.story.
Cole, S. W., Hawkley, L. C., Arevalo, J. M., Sung, C. Y., Rose, R. M., & Cacioppo, J. T. (2007). Social regulation of gene expression in human leukocytes. Genome Biology, 8, R189.
Condon, P., Desbordes, G., Miller, W., & DeSteno, D. (in press). Meditation increases compassionate responses to suffering. Psychological Science.
Diener, E., & Seligman, M. E. P. (2004). Beyond money: Toward an economy of well-being. Psychological Science in the Public Interest, 5, 1–31.
Dunn, E. W., Aknin, L. B., & Norton, M. I. (2008). Spending money on others promotes happiness. Science, 319, 1687–1688.
Fowler, J. H., & Christakis, N. A. (2010). Cooperative behavior cascades in human social networks. Proceedings of The National Academy of Sciences of The United States of America, 107, 5334–5338.
Holt-Lunstad, J., Smith T. B., & Layton, J. B. (2010). Social relationships and mortality risk: A meta-analytic review. PLOS Med 7, e1000316.
House, J. S., Landis, K. R., & Umberson, D. (2003). Social relationships and health. In P. Salovey, A. J. Rothman (Eds.), Social Psychology of Health (pp. 218–226). New York, NY, US: Psychology Press.
Konrath, S., Fuhrel-Forbis, A., Lou, A., & Brown, S. (2012). Motives for volunteering are associated with mortality risk in older adults. Health Psychology, 31, 87–96.
Lee, R. M., Draper, M., & Lee, S. (2001). Social connectedness, dysfunctional interpersonal behaviors, and psychological distress: Testing a mediator model. Journal of Counseling Psychology, 48, 310–318.
Leiberg, S., Klimecki, O., & Singer, T. (2011). Short-term compassion training increases prosocial behavior in a newly developed prosocial game. PLOS ONE, 6: e17798.
Lutz, A., Brefczynski-Lewis, J., Johnstone, T., Davidson, R. J. (2008). Regulation of the neural circuitry of emotion by compassion meditation: Effects of meditative expertise. PLOS ONE, 3: e1897.
Miller, D. T. (1999). The norm of self-interest. American Psychologist, 54, 1053–1060.
Moll, J., Krueger, F., Zahn, R., Pardini, M., de Oliveira-Souza, R., & Grafman, J. (2006). Human fronto-mesolimbic networks guide decisions about charitable donation. Proceedings of The National Academy of Sciences of The United States of America, 103, 15623–15628.
Poulin, M. J., Brown, S. L., Dillard, A. J., & Smith, D. M. (2013). Giving to others and the association between stress and mortality. American Journal of Public Health. e-View Ahead of Print. doi: 10.2105/AJPH.2012.300876
Pressman, S. D., Cohen, S., Miller, G. E., Barkin, A., Rabin, B. S., & Treanor, J. J. (2005). Loneliness, social network size, and immune response to influenza vaccination in college freshmen. Health Psychology, 24, 297–306.
Rand, D. G., Greene, G. D., & Nowak, M. A. (2013). Spontaneous giving and calculated greed. Nature, 489, 227–430.
Vianello, M., Galliani, E. M., & Haidt, J. (2010). Elevation at work: The organizational effects of leaders’ moral excellence. Journal of Positive Psychology, 5, 390–411.

Warneken, F. & Tomasello, M. (2006). Altruistic helping in human infants and young chimpanzees. Science, 311, 1301–1003.
Đọc tiếp

Thứ Tư, 21 tháng 1, 2015

CHIA SẺ ĐAU ĐỚN MANG CON NGƯỜI XÍCH LẠI GẦN NHAU HƠN

0
Đau khổ và tình đoàn kết


Điều gì không hạ gục chúng ta, sẽ làm chúng ta mạnh hơn, ít nhất là với nhóm. Đây là kết quả từ nghiên cứu mới được công bố trên Psychological Science, một tạp chí của Hiệp hội Khoa học Tâm lý.

Nghiên cứu cho thấy đau đớn có thể mang lại những hiệu quả xã hội tích cực, nó như một loại “chất keo xã hội” thúc đẩy gắn kết và đoàn kết trong nhóm;

“Phát hiện của chúng tôi cho thấy đau đớn là nhân tố giúp cố kết và hợp tác rất mạnh mẽ giữa những người có cùng trải nghiệm đau đớn,” nhà khoa học tâm lý và là chủ nhiệm nghiên cứu, Brock Bastian thuộc ĐH New South Wales cho biết. “Kết quả lý giải  việc tại sao tình đồng chí lại phát triển giữa những người lính hay giữa những người cùng chia sẻ những kinh nghiệm khó khăn hay đau khổ.”

Bastian và cộng sự là Jolanda Jetten và Laura J. Ferris thuộc ĐH Queensland đã tìm hiểu mối liên hệ giữa đau đớn và gắn kết xã hội trong một loạt các thực nghiệm với sinh viên.

Trong thực nghiệm đầu tiên, các nhà nghiên cứu tiến hành chỉ định ngẫu nhiên 54 sinh viên, trong các nhóm nhỏ, thực hiện một nhiệm vụ gây đau đớn hoặc làm một nhiệm vụ tương tự nhưng ít đau đớn hơn. Các sinh viên phải nhúng tay vào một thùng nước. Với một số, nước sẽ lạnh cóng, trong khi một số thì nước chỉ có nhiệt độ thông thường.

Nhiệm vụ thứ hai yêu cầu các sinh viên phải ngồi xổm (ngồi lâu sẽ rất đau) hoặc phải giữ thăng bằng trên một chân, tuy nhiên các sinh viên giữ thăng bằng có quyền đổi chân hay sử dụng chống đỡ để tránh mệt mỏi.

Sau đó họ sẽ đánh một bảng khảo sát được thiết kế để đo lường mức độ cảm nhận về nhóm của mình (“tôi cảm thấy mình là một phần của nhóm”, “tôi cảm thấy trung thành với các thành viên khác”)

Những sinh viên thực hiện nhiệm vụ có hay không sự đau đớn đều không có những khác biệt trong cảm xúc tiêu cực hay tích cực.

Tuy vậy, lại có khác biệt rõ ràng trong gắn kết nhóm: Những sinh viên trải qua nhiệm vụ đau đớn cho thấy có mức độ gắn kết cao hơn so với những người tham gia thực hiện các nhiệm vụ bình thường, điều này vẫn đúng ngay cả khi các nhà nghiên cứu đã tính đến các nhân tố như tuổi, giới tính và kích cỡ nhóm.

Đồng thời các nhà nghiên cứu cũng phát hiện rằng chia sẻ đau đớn không chỉ làm tăng tinh thần đoàn kết mà còn giúp nâng cao khả năng hợp tác nhóm trong thực tế.

Trong một thực nghiệm với nhóm sinh viên khác, mỗi nhóm sẽ chơi một trò chơi lựa chọn những con số từ 1 cho đến 7 – nếu tất cả mọi người trong nhóm chọn số 7, họ sẽ được mức thưởng cao nhất. Nhưng nếu họ chọn các con số khác nhau, người chọn số thấp hơn sẽ được mức thưởng cao hơn mức ở trên. Các nhà nghiên cứu nhận thấy những sinh viên thực hiện những nhiệm vụ đau đớn trong cùng nhóm thường chọn các con số lớn hơn những người thực hiện các nhiệm vụ thông thường, điều này cho thấy những sinh viên trong nhóm đau đớn có nhiều động lực hợp tác với nhóm hơn.

Bastian kết luận, “Phát hiện này giúp kiểm chứng giả thuyết ‘đau đớn là chất keo gắn kết xã hội’, nó nhấn mạnh việc [qua đau đớn] con người không chỉ thấy gần gũi hơn với người xung quanh mà còn sẵn sàng hi sinh lợi ích của mình vì nhóm.”

Chia sẻ đau đớn thậm chí còn cải thiện hợp tác ngay cả khi phải ăn tương ớt.
Các nhà nghiên cứu ban đầu chứng minh nhóm chỉ định ngẫu nhiên không có bất kỳ nhận diện tương đồng nào ngoài nhiệm vụ sẽ thực hiện. Cơn đau được vài sinh viên trải nghiệm chỉ phục vụ một chức năng nguyên nhân duy nhất là hướng sự tập trung của các sinh viên khác vào chia sẻ đau đớn, từ đó giúp nâng cao cố kết nhóm.

Kết quả này đem đến một góc nhìn sâu rộng đối với những hành vi xã hội, tôn giáo và thậm chí tình dục trên khắp thế giới, những hoạt động có liên quan đến một số yế tố đau đớn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu tranh luận rằng liệu phát hiện này có mở rộng đến những kinh nghiệm thường nhật của chúng ta hay không:

“Những kiểu trải nghiệm đau đớn này có thể khá phổ biến”, Bastian ghi nhận. “Phát hiện của chúng tôi có thể hướng đến việc hiểu rõ hơn những tiến trình xã hội trong những môi trường như các chương trình huấn luyện thể chất dạng tập trung, các môn thể thao đội nhóm, các khó khăn trong việc điều hành cùng những kinh nghiệm thử thách thể chất khác được nhiều người cùng chia sẻ. “Nằm gai” cùng bè bạn có thể đem đến những hệ quả xã hội tích cực!”

Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi Quỹ Khám phá Hội đồng Nghiên cứu Australia.



Đọc tiếp

Thứ Hai, 19 tháng 1, 2015

LÀM CÁCH NÀO THAY ĐỔI KÝ ỨC GIÚP ĐIỀU TRỊ NHỮNG SUY NGHĨ TIÊU CỰC KHÔNG MONG MUỐN?

0
Suy nghĩ tiêu cực
Các kỹ thuật mới giúp thay thế các ký ức dai dẳng và hiển hiện đang mang lại niềm hy vọng mới cho việc điều trị các suy nghĩ tiêu cực không mong muốn.
Các suy nghĩ tiêu cực không mong muốn là những nhân tố then chốt của các vấn đề như nghiện và rối loạn stress sau sang chấn (PTSD).
Các thân chủ có PTSD thường phải chứng kiến những ký ức sang chấn xuất hiện một cách xuyên, ví dụ như tai nạn giao thông hay các sự kiện bạo lực khác.
Trong các trường hợp nghiện, hành vi của thân chủ bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi những ký ức về việc sử dụng chất và nó thúc đẩy họ tái sử dụng trong tương lai.
Tất nhiên vẫn còn rất nhiều những trường hợp đặc trưng khác diễn ra hàng ngày khi chúng ta có những hồi tưởng về các khoảnh khắc xấu hổ hay những giai đoạn đau khổ mà ta từng trải qua.
Thế nhưng, nếu chúng ta có khả năng thay đổi ký ức về những sang chấn hay việc sử dụng chất thì sao?
Theo một bài tổng hợp nghiên cứu được xuất bản trên tạp chí Biological Psychiatry, chúng ta có thể thực hiện điều này bằng cách tập trung vào một phần của qua trình học tập, được gọi là tái củng cố. (Schwabe et al., 2014).

Mô hình dưới đây cho thấy một tiến trình học tập đặc trưng, khởi đi từ ký ức ban đầu – lấy ví dụ, một sự kiện sang chấn – rồi đến quá trình trích xuất và thay thế.
Tiến trình thay đổi trí nhớ
Tái củng cố là giai đoạn ký ức lưu trữ được nhắc lại và theo một số nghiên cứu mới, có thể được thay thế.
Trong giai đoạn này, ký ức trở nên đặc biệt mất ổn định và dễ thay đổi. Điều này dẫn đến việc trí nhớ có thể bị điều chỉnh nhiều năm sau khi hình thành.
Điều này đem lại hiệu quả cho những nhà trị liệu điều trị thân chủ có những suy nghĩ phiền toái không mong muốn. Những thân chủ này được khuyến khích nhớ lại các ký ức, tuy nhiên lúc này, nhà trị liệu sẽ thử chỉnh sửa những đáp ứng trước các ký ức trên.
Dù vậy, ký ức ban đầu thường rất mạnh mẽ nên việc biến đổi cách phản ứng cũng rất khó khăn. Thế nhưng, với những hiểu biết mới về vai trò của tái củng cố, tiến trình này có thể được thực hiện với hiệu quả cao hơn.
Nó yêu cầu kết hợp những hiểu biết về tái củng cố trên phương diện sinh học thần kinh với thực hành lâm sàng.
Nghiên cứu trên những thân chủ có PTSD cho thấy việc sử dụng một số thuốc trong giai đoạn tái củng cố có thể giúp dập tắt những suy nghĩ sang chấn.
TS. Lars Schwabe, chủ nhiệm nghiên cứu, cho biết:
“Tái củng cố trí nhớ có thể là một trong những hiện tưỡng thú vị nhất trong khoa học thần kinh nhận thức ngày nay.
Nó cho rằng ký ức có thể được điều chỉnh vào lúc trích xuất, điều này đem lại nhiều cơ hội thay đổi những ký ức không mong muốn.”

Tóm tắt nghiên cứu:

Từ vựng
Retrieval (n): trích xuấtConsolidation: Củng cốAlteration (n): thay thếPTSD: post-traumatic stress disorder
Đọc tiếp
NHẤN VÀO LINK "BÀI ĐĂNG CŨ HƠN" Ở TRÊN ĐỂ XEM TIẾP CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG!!! é

Bài đã đăng

Popular Posts

Flickr Images

Flag Counter