Ý nghĩa của ký ức tuổi thơ |
Krystine I. Batcho Ph.D.4/4/2015
Nghiên
cứu đã chỉ ra rằng với đa số chúng ta, trung bình, những ký ức đầu tiên sẽ là
về các sự kiện lúc chúng ta 3 tuổi rưỡi.Tuy nhiên, những nghiên cứu mới đây cho
thấy trẻ em còn có thể nhớ những ký ức còn sớm hơn thế (Wang & Peterson,
2014). Ngược lại, với người trưởng thành, chúng ta chỉ nhớ những ký ức bắt đầu
từ lúc ta 6 đến 6 tuổi rưỡi (Wells, Morrison, & Conway, 2014). Các nhà
nghiên cứu đều đồng ý rằng, có rất ít những ký ức trước tuổi lên 6 có thể trở
thành một ký ức lâu dài.
Những ký ức đầu tiên đó cho chúng ta thấy
những gì về bản thân và tuổi thơ của mình? Và liệu có phải ai cũng ghi nhớ cùng
một kiểu ký ức khi còn nhỏ hay không?
Các
ký ức đầu tiên thường có nội dung rất phong phú: những trò chơi, tai nạn hay
những thay đổi (về nhà ở, trường lớp,…) đều có thể trở thành những sự kiện được
lưu giữ đến tận tuổi trưởng thành (Peterson, Morris, Baker-Ward, & Flynn,
2013). Mỗi kiểu sự kiện còn sót lại khi ta lớn lên đều có thể phản ánh rõ nét
đặc điểm tuổi thơ của chúng ta, đồng thời chúng cũng cho biết những điều gì là
quan trọng và góp phần tạo nên con người chúng ta hiện tại. Ví dụ, trẻ em
Canada thường có những ký ức đầu tiên là về việc tự chơi một mình hay những
thay đổi mang tính cá nhân. Trong khi đó, trẻ em Trung Quốc lại hay nhớ về
những tương tác với gia đình và trường lớp (Peterson, Wang, & Hou, 2009).
Vẫn
chưa rõ lý do tại sao một số kinh nghiệm cụ thể lại được ghi nhớ cả đời, trong
khi nhiều sự kiện khác lại bị loại bỏ. Những ký ức tuổi thơ đầu tiên được người
trưởng thành lưu giữ thường là các sự kiện mang tính cảm xúc. Dù có nhiều ký ức
cho thấy những sự kiện cảm xúc tiêu cực nhưng cũng có nhiều ký ức khắc họa
những kinh nghiệm hạnh phúc thời thơ ấu (Howes, Siegel, & Brown, 1993). Một
vài các tai nạn, ví dụ bị té gãy tay khi đang chơi trong sân trường, cũng hay
được giữ lại đến lúc lớn. Thế nhưng, những khoảnh khắc hạnh phúc như một chuyến
du lịch thú vị hay thời gian chơi đùa với bạn bè cũng thường xuyên được ghi
nhớ.
Nghiên
cứu cũng chứng minh, bên cạnh tính cảm xúc, sự liên tục cũng góp phần tác động
đến “tuổi thọ” của ký ức. Mức độ thông hiểu một cách có ý nghĩa một trải nghiệm
sẽ tác động đến khả năng sự kiện đó được đưa vào “bộ nhớ”. Một cô gái đã hồi
tưởng lại một trải nghiệm rất sống động sau đây khi cô đang học mẫu giáo lúc
3-4 tuổi: Một người đàn ông mang áo vest tới lớp mẫu giáo để nói chuyện. Ông
vừa nói vừa bắt đầu mang thêm từng mẫu phục trang truyền thống của người Bản
địa Mỹ lên người cho đến khi ông đứng trước cả lớp trong trang phục Tù trưởng
bộ tộc Onondaga. Bài học ông truyền tải vô cùng rõ ràng, ông vẫn chỉ là một con
người dù có thể mang cả hai loại quần áo. Khi lớn lên, cô bé năm xưa giải thích
rằng chính ký ức tuổi thơ vô cùng ấn tượng đó đã giúp cô biết trân trọng sự đa
dạng và tạo cảm hứng cho công việc của bản thân cô, một nhà hành động vì quyền
con người.
Tổng
thể của những ký ức tự thuật của chúng ta không chỉ phản chiếu những chất liệu
cuộc sống ta đã sở hữu mà còn là những vật liệu giúp xây dựng nên con người ta
đang trở thành. Những ký ức đầu tiên cho thấy những tác động của bối cảnh văn
hóa lên bản thân chúng ta cũng như những ảnh hưởng của tuổi thơ mà ta đã trải
qua. Trải nghiệm không chỉ là những thứ đã xảy ra với chúng ta, chúng là những “vật
liệu thô sơ” ta dùng để định hình căn tính, bản ngã của mình. Con người ta đã
trở thành có khả năng suy nghĩ về những sự kiện đó, tái đánh giá chúng lựa chọn
cách thức đáp trả. Chúng ta không bị cầm tù bởi quá khứ, chúng ta vẫn có quyền quyết
định sẽ sử dụng những khía cạnh nào của quá khứ để khắc họa nên con người hiện
tại và tương lai của mình.
Những
ký ức tuổi thơ ta chọn để lưu giữ cho thấy những điều ta xem là quan trọng.
Những trải nghiệm đó không cho người khác biết tất cả mọi điều về con người bạn.
Một người ghi nhớ những ký ức về việc bị lạm dụng khi còn nhỏ chưa chắc sẽ bị
đánh giá là “nạn nhân”, “người sống sót”,… Cách thức cá nhân hiểu được ý nghĩa
của những trải nghiệm đó mới góp phần tạo nên ý nghĩa bản ngã của họ. Những ký
ức đang được xử lý đó sẽ tích hợp vào tính cá thể đầy năng động và không ngừng
thay đổi của cá nhân.
Chúng
ta không được lựa chọn tuổi thơ ta đã trải qua nhưng chúng ta được lựa chọn
cách phản ứng với những ký ức đó.
Các bạn có thể tự do chia sẻ và sử dụng bài viết (cũng như
bài dịch) này với mục đích phi thương mại với điều kiện ghi rõ nguồn là từ Psychology Today (và nguồn dịch
là Hành lang Tâm lý). Việc sử dụng bài viết và bản dịch này
trên mạng cần phải có đường dẫn về trang bài viết của Psychology Today https://www.psychologytoday.com/blog/longing-nostalgia/201504/what-your-oldest-memories-reveal-about-you?utm_source=FacebookPost&utm_medium=FBPost&utm_campaign=FBPost
và đường dẫn bài dịch http://hanhlangtamly.blogspot.com/2015/08/ky-uc-tuoi-tho-boc-lo-dieu-gi-ve-ban.html . Những ngoại lệ khác với mục đích
thương mại cần có phép bằng văn bản của Psychology Today và thông báo
cho người dịch.
Tài liệu tham khảo
Batcho, K. I., Nave, A. M., & DaRin, M. L. (2011).
A retrospective survey of childhood experiences. Journal ofHappiness Studies, 12,
pp. 531-545.
Demiray, B., & Bluck, S. (2011). The relation of
the conceptual self to recent and distant autobiographical memories. Memory, 19,
pp. 975-992.
Howes, M., Siegel, M., & Brown, F. (1993).
Early childhood memories: Accuracy and affect. Cognition, 47, pp. 95-119.
Peterson, C., Morris, G., Baker-Ward, L., & Flynn,
S. (2013). Predicting which childhood memories persist: Contributions of memory
characteristics. Developmental Psychology,50, pp. 439-448.
Peterson, C., Wang, Q., & Hou, Y. (2009). “When I
was little”: Childhood recollections in Chinese and European Canadian grade
school children. Child
Development, 80,
pp. 506-518.
Wang, Q., & Peterson, C. (2014). Your earliest
memory may be earlier than you think: Prospective studies of
children’s dating of earliest childhood memories Developmental
Psychology, 50, pp. 1680-1686.
Wells, C., Morrison, C. M., & Conway, M. A.
(2014). Adult recollections of childhood memories: What details can be
recalled? The Quarterly Journal of Experimental Psychology, 67,
pp. 1249-1261
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét