Khác biệt trong tri giác Slate |
Làm cách nào mà hai người cùng nhìn vào một bức ảnh và
lại thấy hai thứ khác nhau?
Bộ não “sống”
trong một lớp vỏ đầy xương xẩu. Bản chất khép kín của hộp sọ khiến cho bên
trong nó hoàn toàn tăm tối. Vì thế mà não lại cần đến mắt để có được hình ảnh
về thế giới bên ngoài, tuy nhiên lại có rất nhiều giai đoạn xử lý khác nhau
giữa bước chuyển đổi năng lượng ánh sáng thành các xung điện diễn ra trong mắt cho
tới bước hoạt động thần kinh tương ứng với tri giác có ý thức về “thực tế”. Nói
cách khác, bộ não đóng vai trò như chiếc điện thoại và tri giác của chúng ta –
khác hẳn với niềm tin phổ thông – lại phụ thuộc vào khả năng tiên đoán của bộ
não về những gì xảy ra ở thế giới bên ngoài thay vì những gì đang thực sự diễn
ra. Điều
này đã được ghi nhận cách đây ít nhất 150 năm, từ tận thời của Hermann von
Helmholtz. Và thời gian vừa qua, hiện tượng này đã được nhận
thấy trên internet bởi rất nhiều người, những người “điên cuồng” tranh cãi về
một câu hỏi xem ra khá đơn giản: Chiếc váy (trong hình) có màu gì?
Có nhiều
phần của não bộ cùng chịu trách nhiệm cho một tri giác nào đó, và việc những
người khác nhau có thể tái tạo thế giới bên ngoài theo nhiều cách khác nhau
hoàn toàn chẳng có gì là bất ngờ. Điều này vẫn diễn ra trong nhiều đặc điểm tri
giác, bao gồm cả hình thể và chuyển động. Ta có thể mô tả rõ ràng nhất thông
qua việc tạo ra một hình ảnh “kích thích” giản đơn nhưng luôn nhất quán trước
những diễn dịch khác biệt và có mang tính tương hỗ. Điều này có nghĩa là não không
cần phải gắn với một diễn dịch nào nhưng vẫn còn có thể thay đổi qua lại giữa
các cách giải thích. Các hình ảnh này được gọi là những “kích thích mơ hồ” hay “kích
thích có hai trạng thái ổn định”, chúng minh họa cho việc thực chất não bộ chỉ
đang “đoán già đoán non” khi nhận thức thế giới. Trường hợp này, ta chỉ cần có
thêm thông tin là đủ để phá bỏ sự mơ hồ trong cách thức ta diễn dịch.
Một kích thích chuyển động với hai trạng thái ổn định.
Bạn thấy hai chấm đen đang di chuyển từ trái sang phải
hay từ trên xuống dưới? (Pascal Wallisch)
|
Việc não bộ
liên tục xây dựng một mô hình về hình ảnh của thế giới cũng đúng với thị giác
màu sắc. Khó khăn căn bản trong tri giác màu sắc là việc nhận diện một đồ vật
mặc cho các điều kiện chiếu sáng thay đổi – liệu ánh sáng không gian lúc đó là sáng
hay mờ. Hỗn hợp các bước sóng đến mắt chúng ta sẽ được diễn dịch bởi não như là
màu sắc, nhưng phần nào là do phản xạ từ vật thể và phần nào là do ảnh hưởng từ
chiếu sang môi trường?
Đây chính là
một trường hợp với bản chất mơ hồ, vì vậy, não bộ phải ra quyết định về việc
liệu phải xem xét diện mạo của một vật thể dựa trên “giá trị bề ngoài” hay phải giảm trừ phần thông tin do điều kiện
chiếu sang mang đến. Não bộ thường không ưu tiên quan tâm đến biểu hiện chính
xác của màu sắc, nhưng lại “để ý” tới việc nhận diện vật thể với ánh sáng trong
các điều kiện cực kỳ khác nhau. (Ví dụ, các bước sóng dài chiếm ưu thế vào sáng
sớm và chiều tối, trong khi các bước sóng ngắn lại phổ biến vào buổi trưa.) Ngoài
ra, não bộ còn cố gắng đạt đến tình trạng “hằng
định màu sắc”—nhận ra việc cùng một vật thể có cùng một màu sắc
bất kể vào thời gian nào trong ngày – và nó thực hiện khá tốt việc này. Tuy
nhiên, trong nỗ lực tìm lại sự cân bằng bằng cách giảm bớt các bước sóng cụ
thể, não bộ phải đánh đổi điều gì đó, và đây là điểm yếu của chúng ta, con
người rất tệ trong việc ước lượng màu sắc thật sự của vật thể. Ví dụ, một mặt
phẳng trắng được ánh sáng đỏ chiếu vào sẽ trông có vẻ hơi đỏ. Cùng một mặt
phẳng trắng đó nhưng nếu được chiếu sáng bởi ánh sáng xanh thì sẽ trông có vẻ
hơi xanh. Nhằm nhận ra đó là mặt phẳng trắng trông cả hai trường hợp, tri giác
chủ quan cần có khả năng loại trừ bớt màu sắc của nguồn ánh sáng.
Cho nên hoàn
toàn không bất ngờ khi việc suy đoán màu sắc có thể bị ảnh hưởng rất lớn bởi bối cảnh. Cùng một
sắc thái xám có thể gần như có màu đen nếu nằm trên một nền màu sáng nhưng gần
như có thể có màu trắng nếu nằm trên một nền màu tối.
Ảo ảnh ánh sáng là rất thông dụng. Bạn có tin hình chữ nhật nằm ở giữa chỉ mang đúng một sắc thái xám? |
Cần ghi nhận
đây không phải là một “lỗi hệ thống” mà là một đặc điểm. Đây là một “đánh đổi”
cần thiết để nhận ra biểu hiện ổn định của cùng một vật thể, mặc cho bối cảnh
ra sao.
Hi vọng đến
đây các bạn vẫn hiểu được ý bài viết muốn nói gì. Bây giờ, chiếc váy nằm ở đâu
trong mớ thông tin này? Sự kiện nổi bật vừa qua đã chia những người xem hình
thành hai nhóm riêng biệt. Một nhóm thấy chiếc váy là vàng-trắng và một nhóm là
xanh- đen.
Kiểu phân
chia diễn dịch này thường xảy ra với các kích thích phức hợp. Điểm quan trọng
của sự kiện “chiếc váy” này là mức độ diễn dịch chủ quan khác biệt ra sao nơi
mỗi người. Theo tác giả, đây chính là loại kích thích phân cực cao nhất từ
trước đến giờ về màu sắc. Tất nhiên chúng ta phải đồng ý rằng không phải màn
hình điện thoại/ máy tính của ai cũng cân bằng màu sắc và ánh sáng giống nhau
và góc độ nhìn cũng có thể có đem lại sự khác biệt, tuy nhiên điều này sẽ không
giải thích được sự khác biệt trong trải nghiệm chủ quan của mỗi người khi xem
cùng một hình ảnh trên cùng một màn hình ở trong cùng một vị trí. Và tất nhiên
lý do gây tranh cãi về “màu sắc thật” của chiếc váy chính là hiện tượng hằng
định màu sắc được nêu ở trên. Đây có vẻ là một chiếc váy xanh-đen được chụp với
mức cân bằng trắng thấp, khiến nó mang một diện mạo khá mơ hồ. Có điều nó vẫn
không thay đổi được việc một số người thật sự tri giác chiếc váy này có màu
vàng-trắng.
Việc diễn
dịch các giá trị màu sắc phụ thuộc vào bối cảnh hoàn toàn có thể được làm rõ nếu
được tách khỏi bối cảnh. Trong hình bên dưới, một số sọc của chiếc váy được lấy
ra, giữ nguyên từ hình gốc. Sọc “trắng hay xanh” bây giờ có thể được xác định
là xanh và sọc “vàng hay đen” nay được xác định là nâu.
Tách sọc, tách nền: một màu rõ ràng là màu xanh, màu kia giống màu nâu. |
Nhưng tại sao lại có sự khác biệt trong cách diễn
dịch? Đây mới là lúc mọi chuyện trở nên hấp dẫn. Nếu sự mơ hồ xuất phát từ sự
hằng định màu sắc (có vẻ là vậy), thì giải thích khả dĩ nhất là do mọi người có
khác biệt trong cách nhìn nhận nguồn chiếu sáng. Những người diễn dịch rằng chiếc
váy được chiếu sáng bởi ánh sáng xanh (tương ứng với khung cảnh sáng) sẽ giảm
thiểu bước sáng này và nhìn thấy chiếc váy có màu vàng/trắng. Còn những người
diễn dịch với chiếu sáng đỏ (bối cảnh tối mờ) sẽ có xu hướng thấy chiếc váy màu
xanh/đen. Hấp dẫn hơn, tự thân bức ảnh không làm rõ cả hai cách diễn dịch: Phần
chiếu sáng có vẻ hơi xanh ở phía trên bức hình nhưng lại có phần hơi vàng/đỏ ở
nửa dưới.
Trên một mức độ cơ bản hơn, chiếc váy
xanh/đen được chiếu sáng bởi một nguồn sáng trắng có biểu hiện tương tự với một
chiếc váy trắng/vàng trên một nền đổ bóng màu xanh.
Nhưng nếu
vậy, một người có thể dễ dàng “ghi đè” một cách có ý thức lên diễn dịch cũ khi
đã được thông tin đầy đủ, tuy nhiên với nhiều người lại không phải vậy, điều
này hoàn toàn trái ngược với đa số các trường hợp hình ảnh mơ hồ khác, ví dụ
như hình thỏ-vịt. Trong đó, mọi người thường có thể điều khiển cách nhìn hình
ảnh theo ý của mình.
Các kích thích mơ hồ. Khi diễn dịch thay đổi, chúng không
bị lẫn lộn với nhau. Mọi người có thể ghi đè các diễn dịch
cũ một cách có ý thức sau khi đã được chỉ cho biết. Pascal Wallisch
|
Chính việc
khó thay đổi trong ý kiến này của hình chiếc váy đã đem đến một số các khả năng
thú vị khác. Ví dụ, việc “Khảm
võng mạc” (retina mosaic)—khả năng phân phối các tế bào hình nón bước sóng
ngắn, trung và dài ở người – được cho là có sự khác biệt căn bản giữa những
người quan sát khác nhau đã được nhìn nhận khá lâu, nhưng có vẻ điều này chỉ
có tác động ít phút lên tri giác thật sự về màu sắc mà thôi. Có lẽ trong trường
hợp này, khác biệt về khảm võng mạc cũng có thể góp phần vào khác biệt về tri
giác đối với chiếc vày mơ hồ này. Hơn nữa, có một kiểu bối cảnh khác cần xem
xét và đó là bối cảnh ngắn hạn. Chúng ta không chỉ tri giác các kích thích thị
giác một cách “ngây thơ”, chúng ta còn tri giác chúng trong bối cảnh với những
thứ chúng ta đã thấy từ trước, một phần là vì không phải tất cả các kích thích
đều giống nhau. Sự kỳ vọng được học tập này có tên gọi là “nhận biết ban đầu”.
Có thể hiểu được nếu một số người khác nhau (chẳng hạn như người hay thức khuya
với những người hay dậy sớm) sẽ có những nhận biết ban đầu khác nhau dựa vào
kiểu điều kiện chiếu sáng mà họ thường gặp hơn. Hoặc có thể còn có sự tương tác
phức tạp hơn giữa cả hai dạng chiếu sáng.
Khi chúng ta
phải công nhận rằng mình hiện không biết lý do vì sao một số người vẫn luôn
nhìn chiếc váy theo kiểu này, một số lại nhìn chiếc váy theo kiểu khác, và một
số người “lúc này lúc khác”, phải công nhận rằng việc chuyển đổi cách nhìn lần
này diễn ra trong một thời gian rất dài. Thông thường, việc chuyển đổi diễn ra
rất nhanh, trường hợp chiếc bình Rubin phía trên là ví dụ. Kiểu chậm trễ này có
thể đặc biệt xảy ra với thị giác màu sắc. Không có cách nào khác là phải làm
các nghiên cứu về lý do bên dưới dẫn đến sự khác biệt này trong cách tri giác
chủ quan.
Trong khi
đó, một bài học mà chúng ta cần rút ra đó là sự khiêm nhường về mặc tri thức.
Không phải chỉ vì chúng ta thấy điều gì đó một cách chắc chắn mà nó có nghĩa
rằng mọi người cũng sẽ phải thấy y như vậy. Hơn nữa, nó còn không có nghĩa là
tri giác của chúng ta luôn Tương ứng mọi thứ xảy ra trong thế giới thực. Tình
huống này nhắc nhớ chúng ta cần cẩn thận và phải luôn cơi mở với những điều
mới. Đó là đôi điều bạn cần nhớ khi lần tới bạn bất đồng ý kiến với người khác.
Ai là người
nói đúng màu? Liệu câu hỏi đó có ý nghĩa hay không? Hay việc chúng ta nhìn thấy
bức tranh rộng lớn hơn mới quan trọng?
Pascal
Wallisch hiện đang dạy tâm lý học và khoa học thần kinh tại ĐH New York
Nguồn dịch:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét