Burnout - kiệt sức nghề nghiệp |
Tác giả: Paula Davis-Laack, J.D,
M.A.P.P, chuyên gia quản lý stress và cân bằng cuộc sống - công việc, cung cấp chiến
lược để giúp con người khỏe mạnh và cân bằng hơn.
Tôi (tác giả) đã viết và chia sẻ nhiều
về kinh nghiệm của mình với hội chứng kiệt sức nghề nghiệp (burnout) trong năm
qua, tôi đã đề cập đến tình trạng căng thẳng tập trung các vấn đề thể chất, tâm
lý và hành vi mà tôi đã trải qua trong những năm cuối hành nghề luật. Gần đây,
tôi nghiên cứu về chứng kiệt sức nghề nghiệp cùng giới tính như là một phần
chuẩn bị cho việc lên những ý tưởng quan trọng trong tương lai, tuy nhiên tôi
vẫn chưa chắc chắn về những điều mình sẽ phát hiện. Tôi không nhìn nhận chứng
kiệt sức nghề nghiệp là vấn đề của riêng đàn ông hay phụ nữ - đây là vấn đề mà
bất kỳ người lao động nào cũng phải cân nhắc; thế nhưng, tôi rất ngạc nhiên khi
đọc một số nghiên cứu có đề cập trực tiếp đến những khác biệt giới tính về vấn
đề sức khỏe này. Vậy, phải chăng giữa nam và nữ trải nghiệm chứng kiệt sức nghề
nghiệp này theo những cách khác nhau? Liệu có những mô hình đặc trưng nào ở nam
và nữ dẫn đến vấn đề này?
Nghiên cứu đầu
tiên tôi tham khảo đã đánh giá mối tương quan
về kiệt sức nghề nghiệp giữa các bác sĩ nam và nữ (đặc biệt là các bác sĩ đa
khoa) sử dụng 3 yếu tố đánh giá chứng kiệt sức theo thang Dấu hiệu Kiệt sức
Nghề nghiệp Maslach (Maslach Burnout Inventory) nhằm kiểm định các phương diện
sau đây của chứng kiệt sức nghề nghiệp: (1)
·
Kiệt quệ: Cảm thấy kiệt sức về
mặt cảm xúc, trống rỗng và cạn kiệt năng lượng.
· Tính tiêu cực:
Có thái độ tiêu cực đối với khách hàng và đồng nghiệp, cảm thấy dễ cáu kỉnh và rút
lui khỏi các hoạt động, giao tiếp xã hội mà họ từng thích thú.
· Thiếu hiệu quả:
Suy giảm thành quả làm việc cá nhân, giảm sút trông thấy trong khả năng hay
hiệu suất, tiêu hao năng lượng vào công việc mà không đem lại kết quả.
Nghiên cứu này tìm ra rằng đàn ông và
phụ nữ xử lý các phương diện trên rất khác nhau. Phụ nữ trải nghiệm tình trạng
kiệt quệ trước, theo sau đó mới là tính tiêu cực và rồi đến mặt thiếu hiệu quả
- các bác sĩ nữ nghĩ rằng mình không phải một người chăm sóc sức khỏe hiệu quả
nên họ ngừng làm việc. Đàn ông, trái lại, có khuynh hướng trải qua cảm giác
tiêu cực trước, sau đó mới là trạng thái kiệt quệ. Điều thú vị là nhiều nam
giới tham gia nghiên cứu vẫn tiếp tục làm việc bởi vì họ không cảm nhận được
các triệu chứng trong hai giai đoạn đầu tiên đã ảnh hưởng đến chất lượng dịch
vụ chăm sóc sức khỏe mà họ mang lại. Các bác sĩ nam không trải qua giai đoạn thiếu
hiệu quả vì họ vẫn nghĩ rằng bản thân làm việc hiệu quả.
Nghiên cứu
thứ hai kiểm định mối tương quan giữa kiệt sức
nghề nghiệp, trầm cảm, lo âu và tính dễ kích động, các yếu tố nguy cơ dẫn đến
bệnh tim mạch. Các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng ở phụ nữ, có tồn tại mối
tương quan giữa chứng kiệt sức nghề nghiệp và sự kích động (đo lường bằng các
dấu sinh học protein - protein biomarkers), song ở nam giới lại không có mối
tương quan tương tự. Thú vị nằm ở chỗ khi chính trầm cảm, chứ không phải kiệt
sức nghề nghiệp hay lo âu tạo nên mức độ kích động cao tương đương nơi nam
giới.
Nghiên
cứu thứ ba chỉ
đơn giản tham khảo các nghiên cứu khác cho thấy có sự kết hợp giữa việc đòi hỏi
cao trong công việc và khả năng kiểm soát kém (mức độ tự chủ thấp). (2) Một nghiên
cứu khác cho thấy mối liên hệ trên (đòi hỏi cao
trong công việc và khả năng quyết định kém) làm gia tăng bệnh tim mạch ở đàn
ông, điều này cho thấy tổ hợp này gây hại cho sức khỏe ở cả đàn ông lẫn phụ nữ.
Tuy số nghiên cứu tập trung vào giới và
hội chứng kiệt sức nghề nghiệp còn hạn chế, ý nghĩa của chúng lại rất quan
trọng. Nếu chúng ta có thể chỉ ra cách mà đàn ông và phụ nữ trải nghiệm hội
chứng kiệt sức, những chuyên gia hỗ trợ nhân sự có thể biết cách ngăn ngừa hội
chứng này phù hợp hơn, nhanh hơn và với nhiều cách can thiệp cụ thể hơn.
Nguồn: Paula Davis-Laack (2014), "How
Burnout Impacts Men & Women Differently", Psychology Today, Published
on April 29, 2014.
https://www.psychologytoday.com/blog/pressure-proof/201404/how-burnout-impacts-men-women-differently
Dịch: Ngọc Anh
(1) Leiter, M.P., & Maslach, C.
(2005). Banishing burnout: Six strategies for improving your relationship with
work. San Francisco, CA: Jossey-Bass. See also, Maslach, C., & Leiter, M.P.
(1997). The truth about burnout: How organizations cause personal stress and
what to do about it. San Francisco, CA: Jossey-Bass.
(2) See also Norlund, S. et al. (2010).
Burnout, working conditions and gender. BMC Public Health 10, 326; and
Rafferty, Y., Friend, R., & Landsbergis, P.A. (2001). The Association
between job skill discretion, decision authority and burnout. Work Stress, 15,
73-85; and Schaufeli, W.B., & Bakker, A.B. (2004). Job demands, job
resources, and their relationship with burnout and engagement: A multi-sample
study. Journal of Organizational Behavior, 25, 293-315.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét