![]() |
Tâm lý xã hội |
Một trong những mục tiêu của giáo là
giúp thế hệ trẻ là trở thành những thành viên có đủ trách nhiệm xã hội, phản biện
khoa học và nhân bản.
Các bạn là những thành viên của xã hội,
đang tham gia vào tương tác xã hội, việc hiểu biết về xã hội và những hiệu ứng
của nó là rất cần thiết.
Tuy nhiên, một số vấn đề, hiện tượng
tâm lý xã hội dưới góc nhìn, định nghĩa khoa học vẫn chưa được nhiều bạn biết đến
ví dụ như áp lực nhóm, hiện tượng đỗ lỗi cho nạn nhân (victim-blaming), quy
gán, “hiệu ứng người qua đường” (bystander-effect),…
Vì vậy, trong chuỗi bài viết khá dài
hơi này, Hành Lang Tâm Lý xin tóm tắt một số hiện tượng tâm lý xã hội thiết nghĩ
sẽ giúp ích được cho các bạn. Chuỗi bài viết sẽ gồm 3 phần:
- Quy gán
- Ảnh hưởng nhóm và sự phục tùng
- Cái ác và lòng nhân ái
QUY GÁN (ATTRIBUTION)
Fritz Heider (1958) cho rằng chúng
ta có xu hướng quy gán hành vi của người khác cho một lý do xuất phát từ (1) một
đặc điểm cố hữu của họ (dispositional attribution) hay (2) cho tình huống xảy
ra vấn đề (situational attribution). Lấy ví dụ, nguyên nhân của hành vi
bạo hành gia đình có thể được một số người lý giải ngay lập tức là do tính tình
nóng nảy hay đạo đức thấp kém của người chồng. Như vậy chúng ta đang quy gán
hành vi bạo hành cho tính tình hay bản chất của người thực hiện hành vi đó. Điều
này dễ dàng khiến chúng ta kết luận rằng đó là một người không tốt. Tuy nhiên,
suy nghĩ này chưa chắc đã chính xác.
Trước khi tiếp tục giải thích hành vi
trên, chúng ta sẽ trả lời câu hỏi: Tại sao chúng ta lại quy gán? Một trong những
lý giải là vì con người có mong muốn giải
thích được mọi việc xung quanh mình để hiểu tình huống và lựa chọn cách phản ứng.
Tuy nhiên chúng ta hay gặp phải vấn đề mental
fatigue – mệt mỏi tinh thần, trạng thái mệt mỏi, giảm suy nghĩ khi gặp phải vấn
đề phức tạp (Lorist, Boksem, & Ridderinkhof, 2005). Trạng thái này làm
giảm động lực tìm hiểu vấn đề, dễ gây ra sai lầm, đơn giản hoá sự việc (van der Linden, Frese, & Meijman, 2003). Vì vậy, khi gặp vấn
đề khó khăn, chúng ta sẽ lựa chọn lý giải đơn giản, ít tốn sức lực suy nghĩ và
dễ dàng chấp nhận nó. Hiện tượng này cũng thường xuyên xảy ra khi các bạn tiếp
nhận thông tin trên báo chí, truyền thông, giao tiếp,… Các bạn không phản biện,
tìm hiểu thông tin vì đơn giản là…lười. Báo nói sao tôi tin vậy, thầy cô nói gì
cũng đúng, … Tất nhiên mức độ tin cậy vào thông tin còn phụ thuộc vào uy tín, sức
mạnh của nguồn tin và ảnh hưởng từ người khác.
Trở về ví dụ bạo hành, chúng ta hay
nghĩ đến chuyện nguyên nhân bạo hành xuất phát từ người chồng. Tuy nhiên, khi
làm điều này, các bạn đã phạm lỗi quy
gán căn bản: chú trọng quá mức vai trò của tính cách so với môi trường (Langdridge & Butt, 2004). Có hàng ngàn lý do
để bạo hành xảy ra như vị trí của người phụ nữ trong xã hội, sự phụ thuộc về
kinh tế và cảm xúc của người vợ vào người chồng (Bornstein, 2006), thói quen dùng bạo
lực để giải quyết vấn đề (Jewkes, Levin, & Penn-Kekana, 2002). Như vậy một hành
vi đơn thuần không thể được giải thích đơn giản là do người gây ra hành vi là xấu
hay không tốt. Cấu trúc văn hoá, xã hội ảnh hưởng gì đến hành vi này? Giáo dục
gia đình ở gia đình người vợ và người chồng có tác động như thế nào?
Mặt khác, trong ví dụ trên, quy gán cá
nhân còn áp dụng cho cả người vợ. Khi thấy một người bị đánh, chắc hẳn các bạn
nghĩ đến việc họ chắc đã làm sai điều gì nên bị như vậy. Khi nghĩ như vậy, các
bạn đã vô tình mắc phải lỗi quy gán mà Hafer và Begue (2005) gọi là just-world theory (lý thuyết “đời công
bằng lắm!” hay “do ăn ở”) và có người gọi là victim-blaming (hiện tượng đỗ lỗi cho nạn nhân). Thực nghiệm cho thấy
đứng
trước một người bị hại, chúng ta có xu hướng cho rằng một phần lỗi là do họ.
Ví dụ, chúng ta có thể nghĩ nạn nhân bị cưỡng bức là do không biết cẩn thận tự
bảo vệ mình (Abrams, Viki, Masser, & Bohner, 2003; Niemi &
Young, 2014) hay người vợ
bị đánh vì có thể đã làm gì không đúng với chồng (Summers & Feldman, 1984). Tuy nhiên, lỗi quy
gán này cực kỳ sai lầm khi được sử dụng để đánh lạc hướng chỉ trích hay bảo vệ
cho hành vi sai trái.
Bên cạnh quy gán cho cá nhân, chúng ta
còn quy gán cho tình huống. Ví dụ,
lý do thường thấy khi sinh viên đi trễ là đường đông, kẹt xe hay ba mẹ quên gọi
dậy. Quy gán tình huống áp dụng cho xã hội khi lý giải nguyên nhân bạo lực là
do tình huống yêu cầu, do trời nóng; lý giải cho chậm phát triển kinh tế là do
thế giới chứ không phải do mình. Nguyên nhân của hiện tượng này là chúng ta sử
dụng quy gán để bảo vệ hình ảnh, từ chối trách nhiệm của cá nhân hay của nhóm (Hewstone, Jaspars, & Lalljee, 1982). Khác biệt về văn
hoá cũng là một yếu tố tác động đến kiểu quy gán. Chua, Boland và Nisbett (2005) cho thấy xã hội
phương Tây hay tập trung vào cá nhân còn xã hội Đông phương lại hay chú ý đến
hoàn cảnh, tình huống.
Cả hai loại quy gán trên dẫn tới hiện tượng “người diễn-người xem”, anh thất
bại là do anh dở, còn tôi thất bại là do tui xui xẻo. Chúng ta quy gán thất
bại của người khác là do cá nhân, do nhân cách, do tính tình của họ. Còn đối với
bản thân, mình thất bại là do hoàn cảnh, là do chưa gặp may mắn.
Như vậy, nhận biết hiện tượng quy gán sẽ giúp các bạn:
- -Nhìn nhận bản
thân và người khác một cách toàn diện, khách quan hơn
- -Có dũng cảm
nhận lấy trách nhiệm, thất bại của mình
- -Nhận ra suy
đoán, phân xử của mình không phải lúc nào cũng chính xác
- -Nhận diện hiện
tượng xã hội với sự trung lập và suy nghĩ phản biện
Vậy làm cách nào để tránh quy gán?
- -Cần suy nghĩ
chậm, cẩn thận và tự phản biện suy nghĩ của mình (Burger, 1991)
- -Ghi nhớ, tạo
động lực để nhắc nhở bản thân cần phải tránh quy gán (Webster, 1993)
- -Luôn suy
nghĩ phản biện, đặt nghi vấn với những hành vi của bản thân, của người khác và
của nhóm (Fein, 1996)
-Hành Lang Tâm Lý-
Facebook: www.facebook.com/hanhlangtamly/
Blogspot: http://hanhlangtamly.blogspot.com/
Tài liệu tham khảo
Abrams, D., Viki, G. T., Masser, B., & Bohner, G. (2003).
Perceptions of stranger and acquaintance rape: The role of benevolent and
hostile sexism in victim blame and rape proclivity. Journal of Personality and Social Psychology, 84(1), 111-125.
doi:10.1037/0022-3514.84.1.111
Bornstein,
R. F. (2006). The complex relationship between dependency and domestic
violence: Converging psychological factors and social forces. American Psychologist, 61(6), 595-606.
doi:10.1037/0003-066X.61.6.595
Burger, J. M. (1991). Changes in attributions
over time: The ephemeral fundamental attribution error. Social
Cognition, 9(2), 182.
Chua,
H. F., Boland, J. E., & Nisbett, R. E. (2005). Cultural Variation in Eye
Movements during Scene Perception,
12629.
Fein,
S. (1996). Effects of suspicion on attributional thinking and the
correspondence bias. Journal of
Personality and Social Psychology, 70(6), 1164-1184.
doi:10.1037/0022-3514.70.6.1164
Feldman, R. S., & Garrison, M.
(1993). Understanding psychology (10th ed.). New
York, NY: McGraw-Hill.
Hafer,
C. L., & Begue, L. (2005). Experimental Research on Just-World Theory:
Problems, Developments, and Future Challenges. Psychological Bulletin, 131(1), 128-167.
Hewstone,
M., Jaspars, J., & Lalljee, M. (1982). Social representations, social
attribution and social identity: The intergroup images of ‘public’ and
‘comprehensive’ schoolboys. European
Journal of Social Psychology, 12(3), 241-269. doi:10.1002/ejsp.2420120302
Jewkes,
R., Levin, J., & Penn-Kekana, L. (2002). Risk factors for domestic
violence: findings from a South African cross-sectional study. Social Science & Medicine, 55(9),
1603-1617. doi:http://dx.doi.org/10.1016/S0277-9536(01)00294-5
Langdridge,
D., & Butt, T. (2004). The fundamental attribution error: A
phenomenological critique. British
Journal of Social Psychology, 43(3), 357-369.
Lorist,
M. M., Boksem, M. A. S., & Ridderinkhof, K. R. (2005). Impaired cognitive
control and reduced cingulate activity during mental fatigue. Cognitive Brain Research, 24(2),
199-205. doi:10.1016/j.cogbrainres.2005.01.018
Niemi,
L., & Young, L. (2014). Blaming the victim in the case of rape. Psychological Inquiry, 25(2), 230-233.
doi:10.1080/1047840X.2014.901127
Summers,
G., & Feldman, N. S. (1984). Blaming the victim versus blaming the
perpetrator: An attributional analysis of spouse abuse. Journal of Social and Clinical Psychology, 2(4), 339-347.
doi:10.1521/jscp.1984.2.4.339
van
der Linden, D., Frese, M., & Meijman, T. F. (2003). Mental fatigue and the
control of cognitive processes: effects on perseveration and planning. Acta Psychologica, 113(1), 45-65. doi:http://dx.doi.org/10.1016/S0001-6918(02)00150-6
Webster,
D. M. (1993). Motivated augmentation and reduction of the overattribution bias.
Journal of Personality and Social
Psychology, 65(2), 261-271. doi:10.1037/0022-3514.65.2.261
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét