Thứ Sáu, 19 tháng 5, 2017

NUÔI DẠY MỘT THẾ HỆ ONLINE AN TOÀN VÀ TỬ TẾ

1
Những vấn đề thanh thiếu niên gặp phải trên mạng

- Monitor on Psychology – April 2017
Các nhà tâm lý đang làm việc với thiếu niên, giảng viên, phụ huynh và ngành công nghiệp kỹ thuật công nghệ để gia tăng nhận thức và ngăn ngừa bắt nạt trực tuyến.
Dưới cương vị là đồng quản lý Trung Tâm Nghiên Cứu về Bắt Nạt Trực Tuyến (Cyberbullying Research Center), TS tâm lý Justin Patchin đã nghe hàng ngàn câu chuyện đau lòng từ các thanh thiếu niên có hình ảnh bị giả mạo và phân tán qua tin nhắn với nội dung không đúng sự thật, cho đến các trẻ bị những thành viên trong các diễn đàn nói rằng chúng không được ai ưa thích và không nên tiếp tục sống.
Patchin cũng đã thực hiện nghiên cứu để xác định số lượng vấn đề. Theo một khảo sát thực hiện trên hơn 5000 học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông, khoảng 33% cho rằng mình bị bắt nạt trên mạng tại một vài thời điểm, và gần 17% bị bắt nạt trực tuyến trong vòng 30 ngày gần nhất.
Bắt nạt trong thế giới ảo là những hành động gây tổn hại có chủ tâm và lặp đi lặp lại thông qua việc sử dụng máy tính, điện thoại di động, và những công cụ điện tử khác. Hình thức phổ biến nhất của bắt nạt qua mạng là những bình luận ác ý và gây tổn thương được đăng trực tuyến hoặc những tin đồn lưu thông trên mạng, Patchin, giáo sư tại đại học Wisconsin – Eau Claire, cho biết.
Trang web của trung tâm cung cấp những dữ liệu nghiên cứu và thông tin cho các nhà giáo dục, cha mẹ và thiếu niên về cách thế ngăn chặn và đối phó với bắt nạt trực tuyến. Khảo sát của Patchin tìm ra rằng những sự kiện đó để lại một số hệ quả: Hơn 10% học sinh cho biết các bạn bỏ học vì bị bắt nạt trên mạng, và 60% các bạn học sinh bị bắt nạt cho biết điều đó ảnh hưởng đến khả năng học tập và cảm giác an toàn của các em.
“Dữ liệu của chúng tôi cho thấy hàng triệu học sinh thôi học vì bị bắt nạt trong thế giới mạng,” Patchin phát biểu. “Bắt nạt qua mạng đặc biệt gây hại vì chúng mang tính ẩn danh, dễ lây lan và không chừa cho nạn nhân bất kỳ lối thoát nào bởi vì chúng ta luôn kết nối trực tuyến 24/7.”
Dữ liệu cũng chứng tỏ thanh thiếu niên thuộc các nhóm thiểu số bị bắt nạt do chủng tộc của mình nhiều hơn so với các nhóm không thuộc thiểu số, theo tiến sĩ Brendesha Tynes, giáo sư khoa tâm lý giáo dục trường Đại học Southern California (Journal of Adolescent Health, 2008). Trong một khảo sát trên nhóm sinh viên người Mỹ gốc Phi, người Mỹ La-tinh, người Á Châu và đa chủng tộc từ lớp 6 đến lớp 12, bà nhận thấy 42% thanh thiếu niên thiểu số đã trải qua ít nhất một lần bị phân biệt chủng tộc trực tiếp trên mạng trong năm đầu tiên đi học, và tỷ lệ này gia tăng khi bà tiếp tục nghiên cứu trên cùng nhóm sinh viên trong hai năm tiếp theo (Psychological Science Agenda, 2015). Sự gia tăng này xuất hiện bởi một số yếu tố, bao gồm việc làm mẫu và sự chấp nhận những hành vi này trong truyền thông và nền văn hóa Mỹ, Tynes cho biết.
Tương tự như việc bắt nạt trực tiếp, bắt nạt qua mạng cũng bao gồm sự mất cân bằng trong quyền lực, nhưng quyền lực ở đây được giành lấy theo một cách khác. Theo Trung Tâm Nghiên Cứu Bắt Nạt Trực Tuyến, trong bắt nạt truyền thống, quyền lực có thể đến từ thể trạng to khỏe, trí thông minh xã hội hoặc mức độ được yêu thích, trong khi những kẻ bắt nạt qua mạng có thể giành quyền kiểm soát bằng kiến thức hoặc sở hữu thông tin, hình ảnh hoặc video có khả năng làm hại người khác.
Trong khi hai loại bắt nạt trên mang đặc điểm riêng biệt, chúng vẫn có liên hệ với nhau, tiến sĩ Robin Kowalski, giáo sư đại học Clemson miền Nam Carolina, chuyên nghiên cứu về bắt nạt qua mạng cho biết. “Nghiên cứu của chúng tôi chứng tỏ thủ phạm thường không giới hạn trong một loại bắt nạt (đối mặt trực diện hay trong thế giới ảo) khi bắt nạt một nạn nhân,” bà cho hay. “Ngoài ra, nạn nhân của bắt nạt truyền thống có thể cảm thấy không thoải mái trong việc trả thù mặt đối mặt và họ có thể dùng bắt nạt qua mạng như một phương kế nếu họ cảm thấy hiểu biết về công nghệ của họ tốt hơn đối phương.”

CHIẾN LƯỢC PHÒNG NGỪA
Các nhà tâm lý học cũng xác định những cách thức giúp ngăn chặn và can thiệp chống lại bắt nạt trực tuyến. Một trong số họ là tiến sĩ Dorothy Espelage, giáo sư tâm lý học tại Đại học Florida, bà đã tìm ra bằng chứng cho thấy nhà trường có thể đóng vai trò quan trọng trong việc dạy trẻ em các hành vi trực tuyến lành mạnh. Nghiên cứu của bà cũng chứng minh trẻ em bị bắt nạt trên mạng thường gặp khó khăn trong việc điều chỉnh cảm xúc và hay có những thành kiến quy gán thù địch – khuynh hướng quy gán hành vi của người khác là có ý thù ghét, ngay cả khi chúng khá mơ hồ hoặc không gây hại.
Gần đây, bà vừa thực hiện một nghiên cứu kéo dài 3 năm trên 36 trường trung học thuộc bang Illinois và bang Kansas để đánh giá liệu một chương trình can thiệp về học tập cảm xúc xã hội, được gọi là Chương Trình Bước Thứ Hai (Second Step Program), có khả năng giảm thiểu bắt nạt hay không. Các nhà nghiên cứu huấn luyện giáo viên để dạy những bài học 50 phút mỗi tuần, trải dài suốt 41 tuần trong vòng 3 năm. Trẻ sẽ được học kỹ năng giải quyết vấn đề, như làm thế nào nhận ra quan điểm của những người có liên quan và làm sao tạo ra nhiều chọn lựa khác nhau để giải quyết một vấn đề. Các học sinh cũng khám phá điều gì sẽ xảy ra trong não bộ khi các em buồn phiền, và đâu là những chiến lược giúp các em trấn tĩnh lại, như là thở bằng bụng hay tự thoại tích cực. Cuối cùng, các học sinh được học về những nguy cơ của lạm dụng chất gây nghiện đối với các trẻ bị nạn nhân hoá. Mặc dù chương trình tập trung vào bắt nạt nói chung, dữ liệu của Espelage cho thấy, theo các bạn học sinh nhận định, can thiệp trên làm giảm cả hai loại bắt nạt truyền thống và trực tuyến khoảng từ 20 đến 40%(School Psychology Review, 2015).
“Chúng ta có thể làm giảm các hình thức khác nhau của việc gây hấn nếu cung cấp các chương trình học tập về cảm xúc – xã hội nhằm trang bị cho trẻ những kỹ năng giải quyết vấn đề, khả năng đối mặt với các yếu tố căng thẳng trong đời sống và tạo dựng lòng cảm thông,” bà cho biết.

CÔNG NGHỆ NHƯ MỘT PHẦN CỦA GIẢI PHÁP
Espelage và đồng nghiệp cũng phát triển một ứng dụng ngăn chặn bắt nạt có thể củng cố những điều mà trẻ học được trong lớp. Ứng dụng BullyDown sẽ gửi một số các câu hỏi đúng-sai qua tin nhắn, ví dụ như: “Các bạn trẻ hành động ‘khác người’ có nghĩa là đang muốn bị bắt nạt.” Sau khi người dùng trả lời, tin nhắn sẽ hiện lên, “Tất cả chúng ta đều khác biệt. Những trẻ em nhìn và hành động khác biệt chỉ là đang cố gắng để là chính mình. Họ cũng muốn có bạn như mọi người khác.” Những học sinh dùng ứng dụng này sẽ được ghép cặp với một người bạn qua tin nhắn để chia sẻ những điều chúng học được từ ứng dụng. (JMIR mHealth uHealth, 2016).
Khả năng điều chỉnh cảm xúc là thành phần trọng yếu của can thiệp, người tham gia cũng chia sẻ các chiến lược đương đầu được họ sử dụng như đọc sách/viết lách, nghe nhạc, bao gồm cả thở bụng và nói chuyện với anh chị em và cha mẹ khi họ buồn phiền hoặc căng thẳng. Một nghiên cứu nhỏ chứng tỏ 86% người tham gia, tuổi từ 13 đến 14 yêu thích ứng dụng BullyDown.
Tiến sĩ Susan Swearer thuộc trường Đại học Nebraska-Lincoln, là một chuyên viên nghiên cứu về bắt nạt và là cố vấn viên cho một giải pháp công nghệ khác: chiến dịch “Tôi là nhân chứng” của Hội Đồng Quảng Cáo (Ad Council), chiến lược này khuyến khích người ngoài cuộc hành động bằng cách gửi một biểu tượng hình mắt khi họ thấy một tình huống bắt nạt qua mạng. Nếu ai đó đăng một bình luận ác độc trên trang cá nhân của người khác, cá nhân có thể ủng hộ nạn nhân bằng cách đăng biểu tượng này. Ứng dụng “tôi là nhân chứng” cũng có thể cho người dùng tiếp cận với tin nhắn có những câu chữ được cách điệu như “đừng nghe họ”, với cỡ chữ lớn hơn hoặc phần nền màu sắc.  
Những công ty công nghệ bao gồm cả Apple ủng hộ phong trào bằng cách quảng bá biểu tượng trên. Ban cố vấn của Ad Council bao gồm các học giả và nhà tâm lý, vì vậy các chương trình sẽ được thông tin bởi các nghiên cứu, Swearer cho hay. “Đây là ví dụ tuyệt vời về sự hợp tác của ngành công nghệ và giới học thuật nhằm giúp giải quyết vấn đề,” bà nói.

ĐÔI LỜI VỚI CHA MẸ
Cha mẹ cũng đóng vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn bắt nạt trực tuyến– và nghiên cứu cũng cho thấy trẻ em sẵn sang đón nhận sự can thiệp đến từ cha mẹ. Trong một nghiên cứu phỏng vấn nhóm tập trung (focus group), Kowalski nhận thấy các bạn trẻ mong muốn cha mẹ tham gia vào một mức độ nhất định (Journal of Adolescent Health, 2007). “Trẻ em muốn có người giám sát, nhưng không chõ mũi vào việc riêng của chúng,” bà nói. “Chúng thấy ổn nếu cha mẹ thỉnh thoảng tìm kiếm lịch sử duyệt web của chúng, nhưng chúng không muốn bị theo dõi bởi phần mềm cài đặt để quản lý tất cả mọi thứ trong máy tính.”
Dựa trên các nhóm thảo luận với thiếu niên, Swearer chỉ ra rằng việc cha mẹ có thái độ cởi mở và chân thành khi trò chuyện với con cái họ về những chỗ chúng thường lui tới trên mạng là rất quan trọng. Bà cũng nhấn mạnh rằng cha mẹ nên tránh cơn cám dỗ lấy đi điện thoại của trẻ nếu họ thấy những điều họ không thích vì sau đó con cái có thể sẽ ít trung thực với họ hơn. Thay vào đó, cha mẹ nên bộc lộ mong muốn bảo vệ con cái, và vì thế, họ muốn được tham gia vào mạng lưới xã hội của trẻ. (Swearer cũng theo dõi con gái tuổi teen của mình trên Facebook, Snapchat và Instagram, nhưng chỉ bình luận hoặc bấm like một bài đăng nếu con gái của bà yêu cầu bà làm thế).
Trong khi đó, tiến sĩ tâm lý của Đại học Arizona, Mike Sulkowski, đang làm việc trong một dự án giúp trao quyền cho thanh thiếu niên để họ tự bảo vệ . Ông hợp tác với một kỹ sư máy tính nhằm tạo ra một ứng dụng cho phép người trẻ - thay vì cha mẹ - chặn những kiểu nhắn tin nhất định nào đó hoặc nhắc nhở họ xem xét lại khi định gửi đi một tin nhắn có nội dung tiêu cực. Ứng dụng cũng nhạy cảm với những từ ngữ, hình ảnh hoặc các sản phẩm truyền thông có thể gây tổn thương hoặc không thích hợp. “Nó có thể được sử dụng để lọc mạng truyền thông tương tự như cách chúng ta loại bỏ các quảng cáo gây phiền toái,” ông nói.
Dựa trên các thông tin thu thập được từ những nhà lập trình và phân tích an ninh, Sulkowski đề nghị trẻ em không nên chấp nhận lời mời kết bạn hoặc yêu cầu tham gia một nhóm từ người không quen biết và các bạn cũng nên tránh đăng các hình ảnh hoặc đoạn clip nếu các bạn không sẵn sàng chia sẻ chúng với cha mẹ của mình.
“Về căn bản, người dùng Internet thông thường cần biết rằng mọi thứ họ làm trong không gian mạng hoặc thông qua việc dùng các kỹ thuật công nghệ mạng đều có thể bị lần ra dấu vết và có thể bị người khác truy cập.”


Dịch:  B.T - Hành lang Tâm lý

Một số bài viết khác có liên quan trên HLTL
KHÁC BIỆT TRONG VIỆC TIẾP CẬN TRUYỀN THÔNG XÃ HỘI GIỮA NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH VÀ TRẺ VỊ THÀNH NIÊN
http://hanhlangtamly.blogspot.com/2015/06/van-de-su-dung-mang-xa-hoi-cua-gioi-tre.html

LÀM CÁCH NÀO ĐỂ QUẢN LÝ TRUYỀN THÔNG TRONG GIA ĐÌNH?
http://hanhlangtamly.blogspot.com/2015/04/lam-cach-nao-quan-ly-truyen-thong-dien-thoai-con-cai.html

Đọc tiếp

Thứ Hai, 15 tháng 5, 2017

KHI NGƯỜI CAO TUỔI… HÀNH ĐỘNG

1
Thể thao ở người cao tuổi

Rebecca A. Clay
April 2017, Vol 48, No. 4, Monitoring on Psychology

Khi TS Anne Bowen bị gãy xương đòn sau khi ngã khỏi ngựa, bác sĩ của bà cho rằng việc xương của bà không lành hoàn toàn không có vấn đề gì to tát. “Ý của ông là tôi đã quá già đề phải lo lắng về nó, ông ấy cho rằng tôi có thể sống chung với nó”, Bà Bowen, giáo sư tâm lý 64 tuổi thuộc ĐH Arizona cho biết. Tuy nhiên, bà không thể sống chung với điều đó. Bà rất nghiêm túc trong việc học cưỡi ngựa đến mức sẵn sàng thuê người huấn luyện để bà đạt đến mức kỹ năng cao nhất. Bà cũng mong đó là con đường bà sẽ theo đuổi đến cuối đời. Bowen cho biết, “Tôi hi vọng đó là cách tôi kết thúc cuộc đời của mình-ở trên lưng ngựa.”

Trải nghiệm này giúp Bowen bắt tay vào một loạt các nghiên cứu mới tìm hiểu về động lực của những vận động viên cao tuổi và những ngăn trở họ phải đối mặt.
Số lượng người cao tuổi ở Mỹ hiện đang tăng nhanh, số lượng người cao tuổi tham gia thi đấu thể thao cũng đang phát triển tương tự. […] Các nhà tâm lý, vận động học và các chuyên ngành khác cũng bắt đầu tìm hiểu điều gì thúc đẩy những vận động viên cao tuổi tham gia tranh tài, đâu là những ích lợi đến từ việc tích cực vận động và liệu có hay không những mặt trái của việc thi đấu thể thao khi về già.

Thách thức tuổi tác
Nghiên cứu định tính của Bowen với những vận động viên cao tuổi cho thấy một số đặc điểm chung về lý do tại sao họ thi đấu. Với một số người, vấn đề không còn nằm ở việc thi đấu. “Tôi quan tâm nhiều hơn đến tiến trình…thay vì mục tiêu,” một vận động viên 66 tuổi chia sẻ với Bowen trong khi đang giới thiệu những phần thưởng bà đã đạt được trong quá khứ. “Những thứ này không quá hấp dẫn với tôi. Tôi yêu thích quá trình đạt được chúng. Quá trình đó có khả năng gây nghiện.”

Những vận động viên cao tuổi cũng mô tả những lợi ích tâm lý và thể lý của việc tập luyện, kể cả việc giảm cân, cùng với việc thiết lập các mạng lữoi xã hội với những vận động viên khác. Bowen cho biết “Tôi kì vọng được nghe nghiệm thể nói về những ngăn trở xã hội-như việc nghe người khác nói ‘Ông/bà đã già rồi, ông bà nên nghỉ ngơi, đừng làm mình bị đau’”. “Tuy nhiên xem ra tín hiệu tích cực hơn khá nhiều”.

Theo TS Rylee A. Diogini, giáo sư văn hoá xã hội tại Trường Khoa học Vận động, Thể thao và Sức khoẻ, thuộc ĐH Charles Sturt tại Bathurst, Úc, phát hiện này phù hợp với các nghiên cứu khác về động lực của vận động viên cao tuổi. Vào năm 2013, trong một nghiên cứu trên tạp chí Sport, Education and Society, Dionigi cùng các cộng sự đã phỏng vấn những người tham gia thi đấu tại World Masters Games. Khác với “câu chuyện văn hoá phổ thông” về việc cơ thể đang xuống dốc, các nhà nghiên cứu nhận thấy những vận động viên với độ tuổi trung bình là 72 cùng lúc vừa phản kháng, vừa tái định nghĩa và vừa chấp nhận tuổi già.

Các ứng viên mô tả việc luyện tập thể thao như một cách lam chậm quá trình lão hoá. “Tôi cho rằng mình chưa già như tuổi 80,” một vận động viên chia sẻ với nhóm nghiên cứu. “Tôi chỉ hơi bị hao mòn chút đỉnh, bạn nghĩ bạn già như thế nào thì bạn sẽ già như thế ấy”. Những người cao tuổi này cũng mô tả những kích thích về xã hội, tinh thần và thể lý mà thể thao mang lại. Thông qua thay đổi môn thể thao hay tham gia luyện tập mà không bân tâm đến thành tích, người tham gia còn nói đến khả năng thích ứng với việc đánh mất tốc độ, tính linh hoạt và các đặc điểm thế lý khác.

Một số lượng lớn các nghiên cứu khoa học thần kinh hiện nay cho thấy vận động cường độ cao có thể giúp làm chậm tiến trình lão hoá về nhận thức. Trong một nghiên cứu vào năm 2016 trên tạp chí Neurology, các nhà nghiên cứu yêu cầu 900 người cao tuổi thuộc nhiều chủng tộc và sắc tộc khác nhau trả lời về hoạt động thể chất của họ vào thời gian rảnh trong vòng 2 tuần. Khoảng 7 năm sau, nhóm nghiên cứu sẽ kiểm tra khả năng nhận thức của họ và kiểm tra lại một lần nữa sau 5 năm tiếp theo. 10% ngừơi tham gia có cường độ hoạt động từ vừa cho tới cao-ví dụ như chạy bộ hay aerobics-có mức độ suy giảm chức năng nhận thức chậm hơn 90% những nghiệm thể cho biết chỉ có mức hoạt động thấp-như chỉ đi bộ hay tập yoga-hay hoàn toàn không vận động.

Trong số những người không có các vấn đề về nhận thức vào thời điểm kiểm tra lần đầu tiên, nhóm hoạt động với cường độ nhẹ cho thấy mức suy giảm lớn về tốc độ xử lý và trí nhớ sự kiện (episodic memory) sau 5 năm. Kết quả này vẫn tương tự sau khi đã kiểm soát các yếu tố về hút thuốc, cao huyết áp và các yếu tố khác có thể gây ảnh hưởng tới sức khoẻ của não bộ. Nhóm nghiên cứu kết luận rằng, khác biệt về tốc độ suy giảm này tương đương với 10 năm lão hoá.

Trong khi các hoạt động thể chất có thể không đem lại nhiều ích lợi cho những người đã có các dấu hiệu về vấn đề nhận thức hay suy giảm trí nhớ, nghiên cứu cho thấy nó có thể bảo vệ những bộ não vẫn còn khoẻ mạnh. Đó là kết luận của Bác sĩ Clinton B. Wright, người thực hiện nghiên cứu trên tại ĐH Y Miller, thuộc ĐH Miami. Tuy nhiên, ông cho biết cần có thêm nhiều nghiên cứu về vấn đề này.

“Đó là một nghiên cứu quan sát”, Wright nhấn mạnh. Cần phải có các nghiên cứu lâm sàng ngẫu nhiên (randomized clinical trial) để khẳng định rằng thể dục thể thao có thể giúp làm chậm tiến trình lão hoá não bộ. “Các tiếp cận mới có tính đến các thách thức trong đời thực, ví dụ như nghiên cứu lâm sàng thực tế (pragmatic clinical trial), đang rất được quan tâm”, Wright cho biết.

Nghiên cứu trên não bộ của một vận động viên cao tuổi tên Olga Kotelko cho thấy vận động cường độ cao thậm chí còn có thể mang lại những lợi ích mang tính phòng tránh. Kotelko, một giáo viên về hưu chuyển hướng sang thi đấu thể thao cao tuổi, bắt đầu chơi bóng mềm ở độ tuổi 65. Sau đó, bà chuyển sang điền kinh vào tuổi 77 và lập kỷ lục thế giới cũng như thắng hàng trăm huy chương vàng trong giải thi đấu cho ngừơi cao tuổi trước khi qua đời ở tuổi 95.

Trong nghiên cứu được công bố vào năm 2016 trên Neurocase, nhà khoa học thần kinh nhận thức, TS Agnieszka Z. Burzynska, giảng dạy về phát triển con người và nghiên cứu gia đình ở ĐH Bang Colorado tại Fort Collons, cùng đồng nghiệp đã so sánh kết quả chụp cộng hưởng từ và trắc nghiệm nhận thức của Kotelko lúc 93 tuổi với một nhóm các phụ nữ khoẻ mạnh, trẻ hơn 20 tuổi nhưng có mức hoạt động thấp. Kết quả cho thấy não bộ của Kotelko có những thay đổi liên quan đến tuổi tác. Tuy vậy, điều đáng ngạc nhiên là chất trắng của bà ít bị ảnh hưởng, đặc biệt ở phần gối thể chai (genu of the corpus callosum), nơi có các bó sợi nối với các phần não trán trước. Chúng chịu trách nhiệm cho các hoạt động nhận thức cấp cao. Mặc dù phần gối là phần chất trắng dễ bị ảnh hưởng bởi tuổi tác nhất, theo Burzynska, phần này ở Kotelko lại có điều kiện tốt hơn những ngừơi trong nhóm đối chứng.

Burzynska tin rằng không chỉ một mình luyện tập thể thao mang lại sự bền bỉ cho bộ não của Kotelko, chính mức hoạt động trung bình cùng ý chí đối mặt với thử thách, bao gồm thể thao, tình nguyện và du lịch đã góp phần mang lại kết quả trên. Burzynska nhận xét, “Olga tự tạo ra một môi trường phát triển phong phú cho chính mình.”
“Chúng ta không thể bảo đảm rằng bất kỳ ai luyện tập thể thao ngay sau khi nghỉ hưu đều sẽ có huy chương vàng hay não bộ của họ đều sẽ tiến triển tích cực”, Burzynska bổ sung, ví dụ trên chỉ là một điển cứu đơn lẻ về não bộ tại một thời điểm nhất định. “Tuy nhiên nó cho thấy bằng chứng về những ích lợi có thể có được khi bắt đầu và duy trì vận động tích cực lúc cao tuổi.”

Một bức tranh đa diện
Khi nói đến những tác động tâm lý do việc tham gia thể thao khi cao tuổi mang đến, nghiên cứu cho thấy nhiều kết quả khác nhau. Đó là nhận định của TS Amy M. Gayman, thành viên khoa vận động học thuộc ĐH Wilfrid Laurier, Waterloo, Canada.

Trong một bài tổng hợp nghiên cứu về việc tập luyện thể thao ở người trên 65 tuổi được đăng tải trên International Review of Sport and Exercise Psychology, Gayman cùng cộng sự nhận thấy thể thao giúp người cao tuổi đạt được cảm giác năng lực, niềm vui, nhiều mối quan hệ xã hội mới và có một nhân dạng tích cực hơn bên cạnh những ích lợi về nhận thức. Bài tổng hợp cũng cho thấy thể thao có thể mang lại động lực cho phụ nữ cao tuổi, và cả ở đàn ông nhưng ở một mức độ thấp hơn.

“Trong khi đàn ông thường quan sát kết quả của bản thân và so sánh với kết quả của phụ nữ hay của những người trẻ hơn, phụ nữ sẽ nhìn kết quả của mình và cảm thấy được truyền động lực bởi những thành tựu mình đạt được, bất kể họ đã làm gì trước đây hay những ngừoi khác làm được những gì,” Gayman chia sẻ. Tuy nhiên, cả ở đàn ông và phụ nữ, việc hiệu quả hoạt động bị giảm sút một cách không thể tránh khỏi do tuổi tác có thể gây chán nản, ưu phiền. Gayman cho biết, “Khi hiệu năng sụt giảm, người cao tuổi sẽ trải nghiệm một số cảm xúc tiêu cực, cụ thể hơn là nỗi sợ hãi bị lão hoá.”

Mối nguy đến từ việc kích hoạt nỗi sợ này không phải là hạn chế duy nhất của việc luyện tập thể thao lúc cao tuổi. Vận động viên lớn tuổi có thể phải đối mặt với sự chống đối đến từ những người xung quanh. Khi nghĩ đến thể thao, bạn sẽ nghĩ đến những ngừoi trẻ khoẻ, không phải đến những người 80 tuổi chạy marathon, Gayman nhận định. Những thiên kiến như vậy được ghi nhận trong những nhận xét mà các vận động viên cao tuổi hay nghe. “Người ta nói ‘Ông/Bà đang luyện tập và thi đấu à? Ông/Bà già rồi. Chẳng phải đây là lúc nghỉ ngơi và tận hưởng cuộc sống hay sao?’” Gayman ví dụ. Đồng thời, những căng thẳng trong gia đình cũng có thể xuất hiện khi vợ chồng hay những người xung quanh lo ngại về thời gian người cao tuổi sử dụng để luyện tập và thi đấu. Thay vào đó, xã hội hay kì vọng họ làm những việc nhẹ nhàng ở nhà.

Cần có thêm nhiều nghiên cứu trong lĩnh vực mới mẻ này, TS Joseph Baker, đồng tác giả của nghiên cứu và là giáo sư khoa học sức khoẻ và vận động tại ĐH York, Toronto, cho biết. "Những điều chúng tôi kết luận vào cuối bài tổng quan hệ thống của mình là chúng ta hiện chưa có đủ thông tin”.
Đa phần dữ liệu tập trung vào sức khoẻ thể chất, Baker nhận xét. “Nếu chúng ta nhìn nhận theo hướng đó, tuyệt nhiên tham gia luyện tập thể thao sẽ có lợi,” ông cho biết. “Tuy nhiên nếu chúng ta nhìn theo một hướng khác, có lẽ không hẳn là vậy”. Sức khoẻ không phải là một khái niệm đơn lẻ, nó mang tính đa diện. “Với các vận động viên cao tuổi, chúng ta biết nhiều về khía cạnh thể chất và dần biết nhiều hơn về các khiá cạnh xã hội và nhận thức. Tuy nhiên, chúng ta không biết gì về những yếu tố khác của sức khoẻ-như cảm xúc, tinh thần và nhiều phương diện khác.”

Tương tự, “thể thao” không phải là một thứ đơn lẻ, Baker lưu ý về khác biệt giữa các môn thể thao khác nhau chú trọng năng lượng, sức bền, tốc độ và chiến lược. Một số môn thể thao có thể tốt cho người cao tuổi hơn một số môn khác. Bên cạnh đó, mẫu nghiên cứu mà các dự án thực hiện chưa phản ánh hết sự phong phú của những vận động viên cao tuổi. “Nếu bạn đi tới Thế Vận Hội Người cao tuổi, bạn sẽ nhận thấy sự áp đảo của những người Âu Châu giàu có, thường đến từ Bắc Mỹ hay Úc”, ông cho biết.
Vậy, Baker kết luận, “thông điệp chung là: thể thao là tốt. Hãy nhìn vào những vận động viên cao tuổi: họ cho thấy một hình mẫu tích cực và thành công khi về già. Tuy nhiên, còn có nhiều yếu tố hơn thế.”

Dịch: Hành Lang Tâm Lý

Các bài khác có liên quan đến ngừoi cao tuỏi trên Hành Lang Tâm Lý
HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI GIÚP LÀM CHẬM TIẾN TRÌNH SUY GIẢM CHỨC NĂNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI:

NHÂN VIÊN CAO TUỔI VÀ CÁC VẤN ĐỀ TRONG TUYỂN DỤNG

TUỔI GIÀ VÀ TÌNH YÊU: NGHIÊN CỨU VỀ ĐỜI SỐNG TÌNH DỤC Ở NGƯỜI CAO TUỔI





Đọc tiếp
NHẤN VÀO LINK "BÀI ĐĂNG CŨ HƠN" Ở TRÊN ĐỂ XEM TIẾP CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG!!! é

Popular Posts

Flickr Images

Flag Counter