Thứ Bảy, 9 tháng 9, 2017

MỐI LIÊN HỆ GIỮA THỰC PHẨM VÀ TÂM LÝ


Thực phẩm và sức khoẻ tâm lý

Rebecca A. Clay, 09/2017

Liệu chế độ dinh dưỡng có ảnh hưởng đến sức khoẻ tâm thần của bạn? Các nghiên cứu mới cho thấy câu trả lời là có.

Đa số các nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu thói quen ăn uống của các nước Phương Tây. Một nghiên cứu tổng quan (meta-analysis) bao gồm các nghiên cứu từ 10 nước, được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu đến từ Shandong, Trung Quốc, cho thấy chế độ ăn uống trên có thể góp phần dẫn đến trầm cảm (Psychiatry Research, Vol. 253, 2017) là một ví dụ. Theo nghiên cứu của TS Felice Jacka, giám đốc Trung tâm Thực phẩm và Khí chất tại ĐH Deakin, Úc, chế độ ăn uống cũng liên hệ đến kích thước của hồi hải mã (hippocampus) ở người cao tuổi (BMC Medicine, Vol. 13, No. 215, 2015).

Trong một nghiên cứu mới trên 120 trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên, sử dụng thức ăn nhanh, đường và nước ngọt có liên hệ tới khả năng gặp chẩn đoán rối loạn tăng động/ kém chú ý (attention-deficit/hyperactivity-ADHD) (Pediatrics, Vol. 139, No. 2, 2017). Nghiên cứu trên được thực hiện bởi TS Maria Izquierdo-Pulido, Bộ môn khoa học dinh dưỡng, thực phẩm và ẩm thực, ĐH Barcelona. Sau khi đã loại trừ cả các biến trung gian (confounder-các biến trung gian ảnh hưởng đến cả biến độc lập và biến phụ thuộc-Chú thích của ngừoi dịch), kết quả còn cho thấy các trẻ ăn ít thực vật, hoa quả, mỡ cá và các thực phẩm khác thuộc vùng Địa Trung Hải có khả năng dễ gặp các triệu trứng ADHD. Các tác giả lưu ý, dù các mối liên hệ này không mang tính nhân-quả, chúng vẫn cho thấy dinh dưỡng có thể có vai trò trong việc phát triển ADHD thông qua các cơ chế chưa được phát hiện.

Những thay đổi nhỏ trong chế độ dinh dưỡng cũng có thể tạo ra những khác biệt lớn. Trong một nghiên cứu khác của Jacka, 67 người có trầm cảm được phân ngẫu nhiên vào 7 buổi tư vấn dinh dưỡng cá nhân với một nhà dinh dưỡng hoặc vào 7 buổi hỗ trợ xã hội (nhóm đối chứng) trong vòng 12 tuần. Nhà dinh dưỡng giúp các nghiệm thể điều chỉnh chế độ ăn uống, như ăn ít đồ ăn vặt và ăn thêm các thực phẩm giàu dinh dưỡng như nông phẩm, cá và rau củ. Trong khi chỉ có 8% những người trong nhóm đối chứng cho thấy tình trạng thuyên giảm, gần một phần ba những người trong nhóm can thiệp dinh dưỡng có tình trạng tích cực hơn (BMC Medicine, Vol. 15, No. 23, 2017).

Những nghiên cứu trên là một phần của những cơ sở bằng chứng trong tâm lý học dinh dưỡng, khoa học nghiên cứu về vai trò của dinh dưỡng-bao gồm chế độ dinh dưỡng, thực phẩm bổ sung đa dinh dưỡng hay các vitamin, khoáng chất và các chất dinh dưỡng khác-trong nguyên nhân của các vấn đề sức khoẻ tâm thần cũng như trong tiến trình điều trị. Đa số các nghiên cứu vẫn giới hạn trong các nghiên cứu ca đơn lẻ và nghiên cứu quan sát, trong đó các nhà khoa học vẫn kêu gọi cần phải có các nghiên cứu có thiết kế chặt chẽ, khái quát hơn đồng thời có lượng mẫu lớn và đa dạng hơn. Dù vây, chúng vẫn cung cấp những gợi ý cho việc phát triển các chiến lược phòng ngừa và điều trị mới cho những người có nhiều vấn đề tâm lý khác nhau.

Dữ liệu nghiên cứu càng ngày càng phát triển
Vào những năm 90, khi nhà tâm lý thực nghiệm Bonnie J. Kaplan lần đầu nghe một số người tuyên bố họ có thể điều trị ADHD bằng các hợp chất đa dinh dưỡng, bà khá xem thường thông tin này. Sau đó, khi tận mắt chứng kiến những dữ liệu sơ khởi cho thấy những cải thiện ở trẻ có ADHD do các chất bổ sung mang lại, bà đã thay đổi cách nhìn và trọng tâm nghiên cứu của mình. Từ đó, bà trở thành người đi tiên phong trong lĩnh vực tâm lý học dinh dưỡng.

Một trong những công thức dinh dưỡng mà Kaplan-hiện là giáo sư danh dự tại ĐH Calgary-và nhiều nhà khoa học khác nghiên cứu có nguồn gốc đến từ một người cha đi tìm phương thuốc điều trị cho các vấn đề sức khoẻ tâm thần cuả gia đình mình do ông không muốn bị ảnh hưởng bởi các tác dụng phụ của các thuốc hướng thần (psychotropic medication). Với hỗn hợp các vitamin, khoáng chất và các amino acid, chất bổ sung này có mục đích bù đắp những thiếu hụt về dinh dưỡng gây cản trở cho hoạt động tối ưu của não bộ.

Câu chuyện gia đình trên cũng như những nghiên cứu ban đầu đã khiến Kaplan thay đổi cách nhìn và tiến hành nghiên cứu hợp chất trên. Từ đó, qua nhiều nghiên cứu nhỏ, bà đã tìm ra những bằng chứng hứa hẹn cho việc sử dụng hợp chất trên trong nhiều trường hợp khác nhau như cải thiện khả năng kiểm soát cảm xúc sau khi bị chấn  thương não bộ (traumatic brain injury) (Annals of Psychiatry and Mental Health, Vol. 4, No. 5, 2016), điều trị các vấn đề cảm xúc và hành vi ở trẻ (Journal of Medical Case Reports, Vol. 9, No. 240, 2015) và giảm thiểu căng thẳng sau thiên tai (Psychiatry Research, Vol. 228, No. 3, 2015).

Theo Kaplan, một phát hiện trong các nghiên cứu về tác động của bổ sung vi dinh dưỡng liên khu vực (broad-based micronutrient) là không chỉ các khu vực mục tiêu, ví dụ như các triệu chứng ADHD, mà nhiều chức năng khác nhau cùng được cải thiện.

Trong một nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled trial), TS Julia J. Rucklidge, giáo sư tâm lý lâm sàng tại ĐH Canterbury, New Zealand, cùng cộng sự cho 80 người trưởng thành có ADHD sử dụng công thức vi dinh dưỡng liên khu vực hoặc sử dụng giả dược (placebo).

Sau 8 tuần, những người tham gia trong nhóm can thiệp cùng vợ/chồng đánh giá mức độ các triệu chứng ADHD của họ giảm thiểu so với nhóm sử dụng giả dược. Dù vậy, các nhà lâm sàng lại không ghi nhận những khác biệt đáng kể về các triệu chứng ADHD ở cả hai nhóm (British Journal of Psychiatry, Vol. 204, No. 4, 2014).

Tuy nhiên, khi đánh giá về chức năng tổng quát, các nhà lâm sang ghi nhận khoảng một nửa nhóm can thiệp cho thấy cải thiện so với chỉ một phần tư ở nhóm giả dược. Đồng thời, khi so với nhóm giả dược, những người trong nhóm can thiệp có mức trầm cảm vừa và nặng trong thời điểm đánh giá ban đầu là những người có nhiều thay đổi nhất về khí sắc. “Dù khá thất vọng vì không có khác biệt đáng kể giữa hai nhóm về tất cả các chỉ số ADHD, cuối cùng điều quan trọng vẫn là những khiếm khuyết được thuyên giảm và bạn hoạt động tốt hơn,”  Rucklidge nhận xét.

Sơ lược về Omega-3
Các nhà tâm lý khác đang tìm hiểu về vai trò của acid béo omega-3. Nhờ vào khả năng chống viêm và tác động lên dopamine và serotonin, omega-3 có vai trò quan trọng trong sự phát triển và chức năng của não bộ. Thiếu hụt có liên hệ tới các vấn đề sức khoẻ tâm thân, TS Mary A. Fristad, thuộc ĐH Bang Ohio cho biết.

Fristad đang nghiên cứu về việc sử dụng omega-3 kết hợp với can thiệp dựa trên bằng chứng mà bà đã xây dựng-tâm lý trị liệu giáo dục tâm lý (psychoeducation psychotherapy). Trong một nghiên cứu đối chứng ngẫu nhiên thử nghiệm, Fristad và cộng sự đã phân 72 thân chủ trầm cảm từ 7 dến 14 tuổi vào 4 nhóm: 12 tuần chỉ sử dụng omega-3, sử dụng omega-3 và trị liệu tâm lý, trị liệu tâm lý kèm giả dược hoặc nhóm chỉ dùng giả dược.

77% thân chủ trong nhóm sử dụng cả omega-3 và được điều trị tâm lý cho thấy cải thiện so với 56% trong nhóm sử dụng giả dược. Trẻ trong cả 4 nhóm đều cho thấy cải thiện sau tiến trình nghiên cứu, Tuy nhiên, với các can thiệp chủ động, những trẻ có mẹ với tiền sử trầm cảm và những trẻ có trầm cảm với ít các yếu tố xã hội gây stress cho thấy cải thiện đáng kể so với việc chỉ sử dụng giả dược (Journal of Clinical Child & Adolescent ­Psychology, Online, 2016).

“Chúng tôi chứng minh rằng với những trẻ có trầm cảm với các yếu tố nội sinh, hơn là do hoàn cảnh, sẽ cần có can thiệp chủ động,” Fristad nhận định. “Trị iệu tâm lý có hiệu quả; omega-3 có hiệu quả; kết hợp cả hai chi kết quả tốt nhất.”

Trong một thực nghiệm khác trên cùng mẫu nghiên cứu, Fristad và cộng sự nghiên cứu về hiệu quả của can thiệp trên các vấn đề hành vi. Những trẻ sử dụng omega-3, dù kết hợp hay không với trị liệu tâm lý, đều cho thấy cải thiện đáng kể trong các vấn đề tăng động và bộc phát so với những trẻ chỉ sử dụng giả dược hay chỉ được trị liệu tâm lý. Các em còn có những cải thiện nhỏ trong việc giảm tập trung, hành vi đứt quãng hay các vấn đề hành vi nói chung (Journal of Abnormal Child Psychology, Vol. 45, No. 5, 2016).

Hiện tại, Fristad hi vọng sẽ tiếp tục nghiên cứu với một lượng mẫu lớn hơn. “Chúng tôi cần thêm nhiều bằng chứng khoa học xung quanh vấn đề này,” bà cho biết.

TEDx talk về vai trò của dinh dưỡng và sức khoẻ tâm thần do tâm lý gia lâm sàng Julia Rucklidge trình bày:

Những thông tin khác
·       Center for Nutritional Psychologywww.nutritional-psychology.org
·       International Society for Nutritional Psychiatry Research.  www.isnpr2017.org/program 
·       Clinical Psychological Science Special Section on Nutrition and Mental Health.  http://journals.sagepub.com/toc/cpxa/4/6
·       Food & Mood Centrewww.foodandmoodcentre.com.au


Dịch: Hành Lang Tâm Lý


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẤN VÀO LINK "BÀI ĐĂNG CŨ HƠN" Ở TRÊN ĐỂ XEM TIẾP CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG!!! é

Popular Posts

Flickr Images

Flag Counter