Thực phẩm và sức khoẻ tâm lý |
Rebecca A. Clay, 09/2017
Liệu chế độ dinh dưỡng có ảnh hưởng
đến sức khoẻ tâm thần của bạn? Các nghiên cứu mới cho thấy câu trả lời là có.
Đa số các nghiên cứu chủ yếu tìm
hiểu thói quen ăn uống của các nước Phương Tây. Một nghiên cứu tổng quan (meta-analysis) bao gồm các nghiên cứu từ
10 nước, được thực hiện bởi các nhà nghiên cứu đến từ Shandong, Trung
Quốc, cho thấy chế độ ăn uống trên có thể góp phần dẫn đến trầm cảm (Psychiatry Research, Vol. 253, 2017) là một ví dụ. Theo nghiên cứu của
TS Felice Jacka, giám đốc Trung tâm Thực phẩm và Khí chất tại ĐH Deakin, Úc, chế
độ ăn uống cũng liên hệ đến kích thước của hồi hải mã (hippocampus) ở người cao
tuổi (BMC Medicine, Vol. 13, No. 215, 2015).
Trong một nghiên cứu mới trên 120 trẻ nhỏ và trẻ vị thành niên, sử
dụng thức ăn nhanh, đường và nước ngọt có liên hệ tới khả năng gặp chẩn đoán rối
loạn tăng động/ kém chú ý (attention-deficit/hyperactivity-ADHD) (Pediatrics, Vol. 139, No. 2, 2017). Nghiên cứu trên được thực hiện bởi TS Maria Izquierdo-Pulido, Bộ môn khoa học dinh dưỡng, thực phẩm và ẩm
thực, ĐH Barcelona. Sau
khi đã loại trừ cả các biến trung gian (confounder-các
biến trung gian ảnh hưởng đến cả biến độc lập và biến phụ thuộc-Chú thích của
ngừoi dịch), kết quả còn cho thấy các trẻ ăn ít thực vật, hoa quả, mỡ cá và
các thực phẩm khác thuộc vùng Địa Trung Hải có khả năng dễ gặp các triệu trứng
ADHD. Các tác giả lưu ý, dù các mối liên hệ này không mang tính nhân-quả, chúng
vẫn cho thấy dinh dưỡng có thể có vai trò trong việc phát triển ADHD thông qua
các cơ chế chưa được phát hiện.
Những thay đổi nhỏ trong chế độ
dinh dưỡng cũng có thể tạo ra những khác biệt lớn. Trong một nghiên cứu khác của
Jacka, 67 người có trầm cảm được phân ngẫu nhiên vào 7 buổi tư vấn dinh
dưỡng cá nhân với một nhà dinh dưỡng hoặc vào 7 buổi hỗ trợ xã hội (nhóm đối chứng)
trong vòng 12 tuần. Nhà dinh dưỡng giúp các nghiệm thể điều chỉnh chế độ ăn uống,
như ăn ít đồ ăn vặt và ăn thêm các thực phẩm giàu dinh dưỡng như nông phẩm, cá
và rau củ. Trong khi chỉ có 8% những người trong nhóm đối chứng cho thấy tình
trạng thuyên giảm, gần một phần ba những người trong nhóm can thiệp dinh dưỡng
có tình trạng tích cực hơn (BMC Medicine, Vol. 15, No. 23, 2017).
Những nghiên cứu trên là một phần của những cơ sở bằng chứng trong
tâm lý học dinh dưỡng, khoa học nghiên cứu về vai trò của dinh dưỡng-bao gồm chế
độ dinh dưỡng, thực phẩm bổ sung đa dinh dưỡng hay các vitamin, khoáng chất và
các chất dinh dưỡng khác-trong nguyên nhân của các vấn đề sức khoẻ tâm thần
cũng như trong tiến trình điều trị. Đa số các nghiên cứu vẫn giới hạn trong các
nghiên cứu ca đơn lẻ và nghiên cứu quan sát, trong đó các nhà khoa học vẫn kêu
gọi cần phải có các nghiên cứu có thiết kế chặt chẽ, khái quát hơn đồng thời có
lượng mẫu lớn và đa dạng hơn. Dù vây, chúng vẫn cung cấp những gợi ý cho việc
phát triển các chiến lược phòng ngừa và điều trị mới cho những người có nhiều vấn
đề tâm lý khác nhau.
Dữ liệu nghiên
cứu càng ngày càng phát triển
Vào những năm 90, khi nhà tâm lý
thực nghiệm Bonnie J. Kaplan
lần đầu nghe một số người tuyên bố họ có thể điều trị ADHD bằng các hợp chất đa
dinh dưỡng, bà khá xem thường thông tin này. Sau đó, khi tận mắt chứng kiến những
dữ liệu sơ khởi cho thấy những cải thiện ở trẻ có ADHD do các chất bổ sung mang
lại, bà đã thay đổi cách nhìn và trọng tâm nghiên cứu của mình. Từ đó, bà trở
thành người đi tiên phong trong lĩnh vực tâm lý học dinh dưỡng.
Một trong những công thức dinh dưỡng mà Kaplan-hiện là giáo sư
danh dự tại ĐH Calgary-và nhiều nhà khoa học khác nghiên cứu có nguồn gốc đến từ
một người cha đi tìm phương thuốc điều trị cho các vấn đề sức khoẻ tâm thần cuả
gia đình mình do ông không muốn bị ảnh hưởng bởi các tác dụng phụ của các thuốc
hướng thần (psychotropic medication).
Với hỗn hợp các vitamin, khoáng chất và các amino acid, chất bổ sung này có mục
đích bù đắp những thiếu hụt về dinh dưỡng gây cản trở cho hoạt động tối ưu của
não bộ.
Câu chuyện gia đình trên cũng như
những nghiên cứu ban đầu đã khiến Kaplan thay đổi cách nhìn và tiến hành nghiên
cứu hợp chất trên. Từ đó, qua nhiều nghiên cứu nhỏ, bà đã tìm ra những bằng chứng
hứa hẹn cho việc sử dụng hợp chất trên trong nhiều trường hợp khác nhau như cải
thiện khả năng kiểm soát cảm xúc sau khi bị chấn thương não bộ (traumatic brain injury) (Annals of Psychiatry and Mental Health, Vol. 4, No. 5,
2016), điều trị các vấn đề cảm xúc và hành vi ở trẻ (Journal of Medical Case Reports, Vol. 9, No. 240, 2015) và giảm thiểu căng thẳng sau thiên
tai (Psychiatry Research, Vol. 228, No. 3, 2015).
Theo Kaplan, một phát hiện trong các nghiên cứu về tác động của bổ
sung vi dinh dưỡng liên khu vực (broad-based
micronutrient) là không chỉ các khu vực mục tiêu, ví dụ như các triệu chứng
ADHD, mà nhiều chức năng khác nhau cùng được cải thiện.
Trong một nghiên cứu đối chứng ngẫu
nhiên (randomized controlled trial), TS Julia J. Rucklidge, giáo sư tâm lý lâm sàng tại ĐH Canterbury, New Zealand, cùng cộng sự cho 80 người trưởng thành có
ADHD sử dụng công thức vi dinh dưỡng liên khu vực hoặc sử dụng giả dược
(placebo).
Sau 8 tuần, những người tham gia trong nhóm can thiệp cùng vợ/chồng
đánh giá mức độ các triệu chứng ADHD của họ giảm thiểu so với nhóm sử dụng giả
dược. Dù vậy, các nhà lâm sàng lại không ghi nhận những khác biệt đáng kể về
các triệu chứng ADHD ở cả hai nhóm (British Journal of Psychiatry, Vol. 204, No. 4, 2014).
Tuy nhiên, khi đánh giá về chức năng tổng quát, các nhà lâm sang ghi
nhận khoảng một nửa nhóm can thiệp cho thấy cải thiện so với chỉ một phần tư ở
nhóm giả dược. Đồng thời, khi so với nhóm giả dược, những người trong nhóm can
thiệp có mức trầm cảm vừa và nặng trong thời điểm đánh giá ban đầu là những người
có nhiều thay đổi nhất về khí sắc. “Dù khá thất vọng vì không có khác biệt đáng
kể giữa hai nhóm về tất cả các chỉ số ADHD, cuối cùng điều quan trọng vẫn là những
khiếm khuyết được thuyên giảm và bạn hoạt động tốt hơn,” Rucklidge
nhận xét.
Sơ
lược về Omega-3
Các nhà tâm lý khác đang tìm hiểu
về vai trò của acid béo omega-3. Nhờ vào khả năng chống viêm và tác động lên
dopamine và serotonin, omega-3 có vai trò quan trọng trong sự phát triển và chức
năng của não bộ. Thiếu hụt có liên hệ tới các vấn đề sức khoẻ tâm thân, TS Mary A. Fristad, thuộc
ĐH Bang Ohio cho biết.
Fristad đang
nghiên cứu về việc sử dụng omega-3 kết hợp với can thiệp dựa trên bằng chứng mà
bà đã xây dựng-tâm lý trị liệu giáo dục tâm lý (psychoeducation psychotherapy). Trong một nghiên cứu đối chứng ngẫu
nhiên thử nghiệm, Fristad và cộng sự đã phân 72 thân chủ trầm cảm từ 7 dến 14
tuổi vào 4 nhóm: 12 tuần chỉ sử dụng omega-3, sử dụng omega-3 và trị liệu tâm
lý, trị liệu tâm lý kèm giả dược hoặc nhóm chỉ dùng giả dược.
77% thân chủ trong nhóm sử dụng cả
omega-3 và được điều trị tâm lý cho thấy cải thiện so với 56% trong nhóm sử dụng
giả dược. Trẻ trong cả 4 nhóm đều cho thấy cải thiện sau tiến trình nghiên cứu,
Tuy nhiên, với các can thiệp chủ động, những trẻ có mẹ với tiền sử trầm cảm và
những trẻ có trầm cảm với ít các yếu tố xã hội gây stress cho thấy cải thiện
đáng kể so với việc chỉ sử dụng giả dược (Journal of Clinical Child & Adolescent Psychology, Online,
2016).
“Chúng tôi chứng minh rằng với những trẻ có trầm cảm với các yếu tố
nội sinh, hơn là do hoàn cảnh, sẽ cần có can thiệp chủ động,” Fristad nhận định.
“Trị iệu tâm lý có hiệu quả; omega-3 có hiệu quả; kết hợp cả hai chi kết quả tốt
nhất.”
Trong một thực nghiệm khác trên cùng mẫu nghiên cứu, Fristad và cộng sự nghiên cứu về hiệu quả của can thiệp
trên các vấn đề hành vi. Những trẻ sử dụng omega-3, dù kết hợp hay không với trị
liệu tâm lý, đều cho thấy cải thiện đáng kể trong các vấn đề tăng động và bộc
phát so với những trẻ chỉ sử dụng giả dược hay chỉ được trị liệu tâm lý. Các em
còn có những cải thiện nhỏ trong việc giảm tập trung, hành vi đứt quãng hay các
vấn đề hành vi nói chung (Journal of Abnormal Child Psychology, Vol. 45, No. 5,
2016).
Hiện tại, Fristad hi vọng
sẽ tiếp tục nghiên cứu với một lượng mẫu lớn hơn. “Chúng tôi cần thêm nhiều bằng
chứng khoa học xung quanh vấn đề này,” bà cho biết.
TEDx talk về vai trò của dinh dưỡng và sức khoẻ tâm thần do tâm lý gia
lâm sàng Julia Rucklidge trình
bày:
Những thông tin khác
·
Clinical Psychological Science Special Section on Nutrition and Mental Health.
http://journals.sagepub.com/toc/cpxa/4/6
Dịch: Hành Lang Tâm Lý
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét