Khóc khi trị liệu |
Thân
chủ không phải những người duy nhất khóc khi trị liệu – đôi khi, nhà trị liệu
cũng thế.
By Lorna Collier
Bạn đang trị liệu cho một
thân chủ vừa tiết lộ cô ta bị lạm dụng rất thậm tệ khi còn nhỏ. Thân chủ của bạn
bắt đầu nức nở - và mắt bạn cũng dần ngấn lệ.
Liệu đó có phải là một phản
ứng phù hợp không? Bạn có cần phải che giấu, ngăn cản dòng nước mắt hay cứ để mặc
chúng? Nếu bạn khóc, điều đó sẽ tác động tới thân chủ như thế nào?
Nhiều chương trình đào tạo
cao học không hề nhắc tới nước mắt trong tiến trình trị liệu, cả trong lớp học
hay cả trong quá trình giám sát. Kết quả là nhiều người tin rằng nhà trị liệu cần
phải luôn mạnh mẽ và trung lập, và nước mắt là dấu hiệu của sự thiếu chuyên
nghiệp, đồng thời làm giảm vai trò được quy định nghiêm ngặt của nhà chuyên
môn.
Tuy vậy, một nghiên cứu
cho thấy nước mắt vẫn rất hay xuất hiện nơi các nhà trị liệu.Ví dụ, nghiên cứu được thực hiện năm 2013 do TS. Amy C. Blume-Marcovici, TS. Ronald
A. Stolberg, và TS. Mojgan Khademi thuộc ĐH Quốc tế Alliant International thực
hiện, đăng tải trên tạp chí Psychotherapy cho thấy 72% các nhà tâm lý và các thực
tập sinh đã từng khóc với thân chủ, 30% từng khóc ít nhất một lần 4 tuần trước
khi khảo sát.
Vậy bạn nhìn nhận điều
này như thế nào? Vai trò của nước mắt nơi nhà trị liệu là gì?
Dấu hiệu của
tính nhân văn
TS. Nadine Kaslow cho biết,
khi bà còn là thực tập sinh, bà chưa bao giờ được nghe đề cập đến việc khóc với
thân chủ.
“Có một thông điệp ẩn giấu
cho rằng bạn không nên làm điều đó, một cách nào đó, nó tượng trưng cho việc bạn
đang gặp phải vấn đề về ranh giới làm việc” Kaslow, giáo sư và tâm lý gia tại
ĐH Y Emory, cho biết. Đặc biệt là các nhà trị liệu nữ thường tin rằng nếu họ
khóc, nước mắt sẽ cho thấy “bạn không đủ vững vàng để làm công việc này.”
Theo Kaslow, những thông
điệp này đến nay vẫn không thay đổi bao nhiêu. Bà vẫn tin rằng hạn chế nước mắt
– không để bản thân nức nở hết cỡ - có thể là một nhân tố tích cực và tự nhiên
trong mối quan hệ trị liệu.
“Nhiều người trong chúng
ta, những người hay nhạy cảm, nhân ái và thường dễ cảm nhận cảm xúc của bản
thân, đôi khi hay nghẹn ngào và ngấn lệ trước thân chủ” “Đó là một phản ứng
nhân văn và liên nhân vị rất bình thường.”
Tất cả các nhà tâm lý đều
làm việc với các vấn đề về cảm xúc của thân chủ, tuy nhiên một số lại thường
hay phải nghe các câu chuyện dễ gây xúc động. Trong số đó có TS. Sarah E. Dunn,
Giám đốc lâm sàng và giám sát tâm lý tại Dự án Grady Nia tại Bệnh viện Grady,
Atlanta, dự án hỗ trợ các phụ nữ là nạn nhân của bạo hành gia đình.
Dunn cho biết các thực tập
sinh đôi khi hay nghẹn ngào trước những câu chuyện đong đầy xúc cảm mà các thân
chủ chia sẻ - “gần giống như là sang chấn do thấu cảm.” Điều này khiến một vài
sinh viên băn khoăn và tìm đến gặp bà.
Dunn cho biết, “Họ cảm thấy
hoảng loạn: Họ có nên đi ra khỏi phòng? Đi vào nhà vệ sinh và cô gắng trấn tĩnh
lại? Hay thân chủ có thấy cũng không sao?”
Qua nhiều năm, bà nhận ra
rằng “việc nhìn nhận nhà trị liệu như một con người và có thể hiện cảm xúc có
thể giúp thân chủ mở lòng thêm một ít.”
Thân chủ nghĩ
gì?
Nghiên cứu tìm hiểu suy
nghĩ của thân chủ về vấn đề này khá khan hiếm.
Trong một nghiên cứu vào năm 2015 trên Psychotherapy,
các nhà nghiên cứu Áshley Treat, Jonathan Kelly và Glenn Waller đã khảo sát
188 thân chủ có rối loạn ăn uống và nhận thấy 57% trong số đó từng chứng kiến
nhà trị liệu rơi nước mắt. Đa số đều nhìn nhận điều này một cách tích cực, tuy
nhiên điều này không tự nhiên mà có: nó phụ thuộc vào cách họ đánh giá nhà trị
liệu.
Nếu họ cho rằng nhà trị
liệu “hành xử tốt” (được các nhà nghiên cứu định nghĩa là thể hiện sự vui vẻ,
chắc chắn và ổn định), thân chủ sẽ dễ nhận xét nước mắt là tích cực hơn và thường
sẽ muốn tiếp tục trị liệu. Nhưng nếu họ cảm thấy nhà trị liệu “hành xử tiêu cực”
(lo âu, buồn chán hay tức giận), thân chủ sẽ cảm thấy kém tích cực hơn với nước
mắt và tiến trình trị liệu.
Kiểu khóc cũng quan trọng.
Đa phần hay mô tả nhà trị liệu chỉ mới “chớm” nước mắt. Một số thì mô tả nhà trị
liệu khóc nhiều nhưng vẫn tiếp tục làm việc. Một số ít hơn thì mô tả nhà chuyên
môn khóc nhiều đến độ buổi làm việc phải tạm ngưng. Thân chủ thường đánh giá mức
độ khóc càng lớn là càng tiêu cực.
Các nhà nghiên cứu kết luận:
“Nước mắt nhà trị liệu không thể được nhìn nhận là tích cực hay tiêu cực hoàn
toàn – nó phụ thuộc vào cách thân chủ nhìn nhận nhà trị liệu trong vị thế một
nhân vị ra sao”
Trong một luận án sắp
công bố của tại ĐH Đông London, Alice Watso đã nghiên cứu về phản ứng của thân
chủ trước việc nhà trị liệu khóc. Cô có động lực làm đề tài này sau khi chứng
kiến hai nhà tham vấn khóc trước mặt mình – và cô đã có hai phản ứng rất khác
nhau.
Một trường hợp khiến cô cảm
thấy gần gũi hơn với nhà trị liệu, trong khi trường hợp còn lại có tác dụng
hoàn toàn trái ngược, nó khiến cô quyết định kết thúc tiến trình trị liệu vốn
dĩ đã chẳng êm đẹp gì.
Trong đề án nghiên cứu của
mình, Watson phỏng vấn tám người tại Vương Quốc Anh, từ 25 đến 56 tuổi, từng chứng
kiến nhà trị liệu khóc trong tiến trình làm việc. Nghiên cứu định tính, tìm hiểu
xem điều gì là hiệu quả và không hiệu quả, cho thấy kì vọng của thân chủ về trị
liệu và nhà chuyên môn tác động đến nhận thức của họ. Một số sẽ phản ứng tiêu cực,
xem nước mắt là điểm trừ cho hình ảnh nhà trị liệu trong mắt họ, đồng thời làm
lu mờ vai trò và ranh giới một cách tiêu cực. Số khác lại xem nước mắt nhà trị
liệu là sự nhìn nhận những nỗi đau mà thân chủ gặp phải.
Theo Watson, bất kể thân
chủ nhìn nhận tích cực hay tiêu cực, tất cả những người tham gia đều cho rằng
nước mắt của nhà trị liệu là “thời điểm quan trọng và ảnh hưởng tới mọi việc diễn
tiến về sau trong tương quan trị liệu.”
Bạn nên nói gì
khi rơi nước mắt?
Nếu bạn rơi lệ trước mặt
thân chủ, bạn có nên thừa nhận điều đó? Hay tiếp tục làm việc như chưa có chuyện
gì xảy ra?
Kaslow cho rằng điều này
còn phụ thuộc vào tình huống và mối quan hệ. Đôi khi tốt nhất là không nói gì cả.
“Nước mắt sẻ chia trong một
tình huống đau buồn đôi khi không cần lời giải thích nào cả.” Nhưng nếu thân chủ
phản ứng bằng cách cố gắng quan tâm đến nhà trị liệu thì “đó mới là lúc cần lên tiếng.”
Nếu trong trường hợp thân
chủ không khóc mà chỉ có nhà trị liệu khóc, Kaslow đề nghị ta nên nói một trong
những điều sáu đây: “Tôi nghĩ tôi khóc là vì …” hay “Bạn phản ứng như thế nào
khi tôi khóc?” Những điều trên có thể được trao đổi ngay lặp tức hay sau khi buổi
làm viêc kết thúc, thậm chí là trong buổi làm việc tiếp theo.
Khi nào nước mắt
là không thích hợp
Khóc có thể có nhiều định
nghĩa, từ một đôi mắt long lanh đến một dòng lệ nhẹ nhàng lăn trên má cho tới
tiếng than van nức nở. Các nhà trị liệu thường cảm thấy tiếc nuối vì đã “khóc lớn,
khóc nhiều hay khóc vì những việc liên quan đến tình trạng bản thân”,
Blume-Marcovici cho biết.
Một điểm nguy hiểm nữa cần
lưu ý: khóc bất kể khi nào bạn thấy người khác có vấn đề.
Nếu cứ mỗi lần thân chủ đề
cập đến một vấn đề nhất định mà nhà trị liệu đều khóc, “có lẽ thật sự là bạn
chưa giải quyết được vấn đề đó nơi bản thân”, Kaslow chia sẻ. Nếu điều này xảy
ra, bản thân bạn có lẽ cần được nhận sự hỗ trợ và bạn nên bàn luận điều này với
giám sát của bạn.
Theo Blume-Marcovici, những
yếu tố dễ “gây” nước mắt cho nhà trị liệu bao gồm đau buồn, mất mát hay sang chấn.
Nhà trị liệu vừa trải nghiệm mất mát hay những sự kiện gây căng thẳng nghiêm trọng
trong cuộc sống có thể quay lại làm việc quá sớm – họ sẽ dễ xúc động khi thân
chủ chia sẻ những trải nghiệm tương tự những điều họ vừa trải qua.
Bà cho rằng nhà trị liệu
cần biết cách đánh giá mức độ sẵn sàng của bản thân trước khi quay trở lại làm
việc. Tất nhiên sẽ rất khó để biết được chính xác khi nào – hay liệu có hay
không – việc nước mắt sẽ xuất hiện. Tuy vậy, thay vì mù mờ suốt buổi làm việc, nhà
trị liệu cần phải nhận biết được rằng phản ứng rất con người này hoàn toàn có
thể diễn ra và cần có ý tưởng về việc mình cần phải làm gì khi việc này xảy đến.
Một cách lý tưởng nhất, Kaslow và Blume-Marcovici cho rằng các chương trình đào
tạo tâm lý cần đề cập đến vấn đề này để đem lại câu trả lời thoả đáng nhất.
Dịch: Hành Lang Tâm Lý
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét