Bạo hành và lạm dụng trẻ em |
Ghi chú của ngừoi
dịch:
Chúng ta đã biết những
tác hại của việc lạm dụng tình dục ở trẻ em (Paolucci,
Genuis, & Violato, 2001). Việc dư luận phản
ứng mạnh mẽ trước các nghi phạm cũng như trước hiện tượng này là điều hoàn toàn
có thể hiểu được. Tuy nhiên, vấn đề không thể chỉ dừng lại ở đó. Không chỉ lạm
dụng tình dục, các hình thức lạm dụng khác như thể lý và tâm lý cũng ảnh hưởng
rất tiêu cực đển trẻ em (Norman
et al., 2012). Thậm chí, bạo hành về tâm lý có thể có tác
hại tương đương với bạo hành về thể lý hay lạm dụng tình dục (Spinazzola
et al., 2014/ Link bài viết tại HLTL: http://hanhlangtamly.blogspot.com/2014/10/bao-hanh-tam-ly-o-tre-em-co-tac-hai.html ). Vậy nên, tất cả các trường hợp bạo hành và lạm dụng trẻ em
đều cần có sự quan tâm đúng mực.
Ngoài ra, có rất nhiều
các yếu tố khác ảnh hưởng đến việc lạm dụng tình dục trẻ em diễn ra như hệ
thống hỗ trợ xã hội, chính sách, cộng đồng, giáo dục, gia đình (Collin-Vezina
&Garrido, 2017; Baril,Tourigny,
Paillé, & Pauzé, 2016) . Đồng thời, đối với
các nhà chuyên môn, một loạt các vấn đề khác về đạo đức cần phải đươc cân nhắc (Haverkampf
& Daniluk, 1993). Một ví dụ cụ thể
minh hoạ các bạn có thể tham khảo tại: http://www.socialworker.com/feature-articles/ethics-articles/To_Report_or_Not_To_Report%3A_That_Is_the_Ethical_Dilemma/ ). Vì thế, cần có một cái nhìn toàn diện nhưng không kém phần
cẩn trọng khi bàn đến nguyên nhân và các giải pháp cho vấn đề lạm dung trẻ em.
Hành Lang Tâm Lý xin giới thiệu một bài viết nêu ý kiến cá nhân của Giáo
sư Ann Gallagher, Giáo sư về Chăm sóc và Đạo
đức chuyên môn, Phòng Giám sát Đạo đức Chăm sóc Quốc tế, Đại học Surrey, Anh
Quốc, về một vụ việc tương đương (và còn có thể nghiêm trọng hơn) xảy ra tại
Anh cách đây 2 năm. Tính thời sự và các thông điệp nay vẫn còn có thể đem lại
cho mọi người một góc nhìn mới về vấn đề lạm dụng tình dục trẻ em và cách chúng
ta phản ứng.
Chúng ta rất dễ cảm thấy phẫn
nộ khi nghe đến các trường hợp lạm dụng tình dục trẻ em đã và đang xảy ra. Cụ
thể hơn, quy mô và hệ quả của vụ việc tại Rotherham (sáu người đàn ông bị kết tội lạm dụng nhiều phụ nữ và trẻ em gái,
trong đó có một bé gái 12 tuổi, https://www.theguardian.com/uk-news/2016/nov/04/rotherham-child-sexual-exploitation-eight-men-jailed- Ghi chú của người dịch) khiến cho không ít chúng ta phải sử dụng những
cụm từ như “kinh tởm”, “không thể bào chữa” và “công lý phải được thực thi”.
Nhưng chúng ta cần làm nhiều
hơn thế. Thật vậy, chúng ta cần có những phân tích kỹ càng về mặt quy tắc đạo đức
để cải thiện cách chúng ta phản ứng trước các trường hợp lạm dụng tình dục. Đặc
biệt, chúng ta cần có cách tiếp cận sao cho quyền lợi của những nạn nhân và gia
đình nạn nhân được đảm bảo một cách cẩn trọng nhất. Chúng ta cần có thời gian
và không gian để làm việc với tất cả những người có liên quan. Chúng ta cần
tham khảo quan điểm của cả những người bị cho là chưa hành động đúng mức cần
thiết hay của những cộng đồng đã “làm ngơ” để cho những vụ việc trên xảy ra (Cảnh sát và Hội đồng thành phố Rotherham bị
chỉ trích dữ dội vì đã phản ứng không hiệu quả và che đậy vụ việc-ghi chú của
người dịch). Đồng thời, chúng ta cũng cần nỗ lực để hiểu được các yếu tố cá
nhân, tổ chức và cộng đồng nào đã khiến cho việc làm dụng xảy ra trong một thời
gian dài đến như vậy. Chúng ta cần có một tầm nhìn xa hơn.
Tựu chung lại, chúng ta cần
một “quy tắc đạo đức từ tốn”. “Quy tắc đạo đức từ tốn” ở đây đặt trọng tâm vào:
chất lượng làm việc với bối cảnh địa phương, hơn là số lượng hoạt động được thực
hiện; giành thời gian và tạo không gian để hiểu và suy xét các cách giải thích,
hơn là vội vã phản ứng; xây dựng các mối quan hệ hỗ trợ, hơn là chỉ làm theo
quy trình; tập trung vào trải nghiệm của con người, hơn là vào các mục tiêu trừu
tượng; hợp tác và đối thoại, hơn là thiếu hợp tác do những giả định thiếu thông
tin và sự sợ hãi tạo nên [Xem bài báo khoa học sau: http://cet.sagepub.com/content/early/2013/09/13/1477750913502615]. Theo quan điểm của chúng
tôi, việc này bao gồm cả việc tiếp xúc với cộng đồng của nạn nhân lẫn cộng đồng
của nghi phạm. “Quy tắc đạo đức từ tốn” cũng bao hàm cả việc cam kết tôn trọng
và cung cấp những chăm sóc sức khoe và an sinh ngắn và dài hạn cho các nạn nhân
và gia đình của họ.
Theresa May (Bộ trưởng Bộ Nội
Vụ Anh vào thời điểm bài viết, nay là Thủ tướng Anh – chú thích của nguòi dịch)
vừa lên tiếng xin lỗi vì hai lành đạo vụ điều trần về trường hợp lạm dụng tình
dục này vừa liên tiếp từ chức, để lại chỗ trống trong vị trí điều hành. Bà nói
rằng bà sẽ tham khảo ý kiến của những nạn nhân về vụ việc này. Việc để những nạn
nhân tham gia lên kế hoạch cho vụ điều trần cho thấy tín hiệu nhận thức về tầm
quan trọng của ý kiến của họ. Kết luận “lắng nghe cẩn thận và phán xét cẩn trọng”
là phát hiện quan trọng trong một nghiên cứu tôi thực hiện cách đây vài năm về
cách thức các bác sĩ phản ứng với việc lạm dụng trẻ em (Xem: http://jme.bmj.com/content/38/2/87.abstract ]. Nó là một phần quan trọng
trong việc đạt đến sự hiểu biết tường tận về vấn đề. Báo cáo của Điều tra Độc lập
về Trường hợp Lạm dụng Tình dục Trẻ em ở Rotherham đã cho phép những nạn nhân
được lên tiếng, những người thường bị buộc phải im lặng vì sự kì thị hay vì
thái độ của những người xem nhẹ vụ việc. Một số tiết lộ rằng họ cảm thấy “như
mình đã chết” hay thậm chí cảm thấy được “yêu thương” bởi người lạm dụng.
Trong trường hợp Rotherham,
rõ ràng một số cá nhân trong các dịch vụ đáng lẽ phải bảo vệ và chăm sóc cho trẻ
em và thanh thiếu niên đã không hoàn thành được trách nhiệm của mình. Các tổ chức
có nhiệm vụ ngăn ngừa, bảo vệ và chăm sóc cũng đã thất bại trong việc lắng nghe
các cá nhân và gia đình khi các báo cáo ban đầu cho rằng việc lạm dụng đã bị thổi
phồng quá mức. Cộng đồng cũng đã thất bại khi nhắm mắt làm ngơ và có lẽ đã
không nghĩ rằng các hành động trên đã vi phạm nghiêm trọng quyền con người. Việc
thiếu kiên quyết trong hành động được bao biện dựa trên lo ngại rằng kết tội một
nhóm người nào đó sẽ bị gắn mác phân biệt chủng tộc. Tất cả những quan điểm
trên đều cần phải được thách thức.
Có rất nhiều bằng chứng về
những vụ lạm dụng trẻ em đã xảy ra mà không được báo cáo cho đến khi trưởng
thành. Chúng ta cũng biết rằng, trong quá khứ, nạn nhân thường sợ người khác
không tin mình, sợ bị đổ lỗi hay bị cô lập do lạm dụng. Nhiều người xung quanh
cũng có khả năng biết về các trường hợp bị lạm dụng. Đối với các nhà chuyên môn
có liên quan, chúng tôi phải đặt câu hỏi vì sao có quá ít người lên tiếng dù
cho họ buộc phải trả lời trung thực trước toà? Vì sao không có câu hỏi nào được
đặt ra cho những mục tiêu hành động mà nay đã thất bại trong việc đặt nhân phẩm
và quyền con người của trẻ em lên hàng đầu? Chúng ta cần có thời gian để cân nhắc
những lời giải thích cho sự vô tâm trên cùng các hành vi phi đạo đức. Đó có thể
là việc sợ hãi bị trả thù. Hay những người im lặng không nhìn nhận các trẻ bị hại
giống như các trẻ trong chính gia đình hay khu vực của họ? Hay có lẽ họ cho rằng
trẻ em một khu vực nào đó sẽ không đáng được chú ý và bảo vệ? Hay có lẽ họ
không có đủ không gian và thời gian để tự suy xét những yếu tố đạo đức trong
hành động và sự vô tâm của mình?
Vấn đề xảy ra ở Rotherham
có thể do sự trì trệ, thờ ơ hay thiếu nhận thức về đạo đức, do sự sợ hãi hay
thiếu ý thức về công bằng xã hội và trách nhiệm công dân. Việc cân nhắc cẩn trọng
và từ tốn các yếu tố đạo đức trong giáo dục và thực hành chuyên môn có thể giúp
nâng cao nhận thức và thách thức các các quan điểm chuyên môn tiêu cực cho rằng
một số trẻ không cần được chăm sóc và bảo vệ. Nhưng như vậy là chưa đủ. Cần phải
có sự đối thoại thường xuyên giữa các nhóm và cộng đồng để tìm ra những phương
thế an toàn giúp các vấn đề được lên tiếng, tìm ra cách để chống lại việc phân
biệt đối xử và thái độ kì thị, chống lại việc đặt ra những ưu tiên thiếu đạo đức,
cần thách thức những mục tiêu sai định hướng và bàn luận cách để các giá trị
then chốt của quy tắc đạo đức cẩn trọng và từ tốn như hiểu biết, nhân ái, dũng
cảm và liêm chính được phát triển. Trẻ bị lạm dụng cùng gia đình xứng đáng có
được nhiều hơn những gì chúng ta đang làm. Thật vậy, chúng ta có cơ hội để xây
dựng một xã hội, mà theo lời của Mary Warnock, chúng ta có thể ca ngợi và ngưỡng
mộ nếu làm được những điều trên.
Ann Gallagher, Professor of Ethics and Care & Members of
International Care Ethics Observatory Advisory Group, University of Surrey [http://www.surrey.ac.uk/fhms/research/centres/ICE/]
Tài liệu tham khảo phần ghi chú:
Baril, K., Tourigny, M., Paillé, P., & Pauzé, R. (2016). Characteristics of sexually abused children and their nonoffending mothers followed by child welfare services: the role of a maternal history of child sexual abuse. Journal of child sexual abuse, 25(5), 504-523.
Collin-Vézina, D., & Garrido, E. F. (2016). Current issues in child sexual abuse, gender and health outcomes: shedding new lights to inform worldwide policy and practice.
Haverkamp, B., & Daniluk, J. C. (1993). Child sexual abuse: Ethical issues for the family therapist. Family Relations, 134-139.
Norman, R. E., Byambaa, M., De, R., Butchart, A., Scott, J., & Vos, T. (2012). The long-term health consequences of child physical abuse, emotional abuse, and neglect: a systematic review and meta-analysis. PLoS Med, 9(11), e1001349.
Paolucci, E. O., Genuis, M. L., & Violato, C. (2001). A meta-analysis of the published research on the effects of child sexual abuse. The Journal of psychology, 135(1), 17-36.
Spinazzola, J., Hodgdon, H., Liang, L. J., Ford, J. D., Layne, C. M., Pynoos, R., ... & Kisiel, C. (2014). Unseen wounds: The contribution of psychological maltreatment to child and adolescent mental health and risk outcomes. Psychological Trauma: Theory, Research, Practice, and Policy, 6(S1), S18.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét