Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

(NGƯNG) KẾT NỐI

Công nghệ ảnh hưởng tương tác xã hội

Các nghiên cứu tâm cho thấy điện thoại thông minh ảnh hưởng đến sức khoẻ tinh thần thể của chúng ta ra sao đâu cách để giành lại quyền kiểm soát cuộc sống của chúng ta.
Kirsten Weir March 2017, Vol 48, No. 3, Monitoring on Psychology

Apple giới thiệu iPhone vào năm 2007 thế giới đã không bao giờ còn như xưa. iPhone không phải điện thoại thông minh đầu tiên sử dụng nền tảng internet, công nghệ màn hình cảm biến các ứng dụng tích hợp đã giúp iPhone chiếm lĩnh thị trường khởi đầu một cuộc cách mạng. Ngày nay, các thiết bị di động không dây đã xuất hiện trong túi của hàng triệu người, không chỉ vai trò đơn thuần một chiếc điện thoại còn được sử dụng để lướt internet, nhắn tin, sắp xếp thời gian biểu, quay phim, báo thức, chỉ đường xem phim.

Năm 2015, theo Pew Research Center, 72% ngừoi Mỹ cho biết mình sở hữu một chiếc điện thoại thông minh (Pew, 2016). Chắc chắn, điện thoại thông minh khiến cuộc sống của chúng ta trở nên dễ dàng hơn. Đó nhận định của TS Elizabeth Dunn, giáo tâm học tại ĐH British Columbia, chuyên nghiên cứu về tác động tích cực tiêu cực của công nghệ di động lên sức khoẻ tinh thần thể của con người. “Toàn bộ tri thức nhân loại nằm bên dưới ngón tay của chúng ta, điều đó chắc chắn sẽ rất hữu ích”. Tuy nhiên, cũng nhiều thứ bị đánh đổi để đem lại sự tiện lợi đó. Công nghệ di động cũng đồng thời sức mạnh ảnh hưởng tiêu cực đến sức khoẻ hạnh phúc của con ngừoi, cho biết. “Trung tâm của chúng tôi vẫn tìm kiếm những lợi ích [của việc sử dụng điện thoaị thông minh], nhưng nhìn chung những bất cập vẫn luôn xuất hiện”.

Tệ nhất, các nghiên cứu cho thấy điện thoại thông minh thể làm ảnh hưởng đến giấc ngủ, khiến chúng ta bị căng thẳng tập trung quá nhiều sự chú ý vào . Tuy vậy, tâm học thể nắm giữ chìa khoá trong việc giúp mọi người kiểm soát công nghệ này, phòng tránh những tác hại tiêu cực tăng cường sức khoẻ tinh thần của chúng ta. Dunn cho biết, những nhà phát triển công nghệ không làm việc trong các lĩnh vực nâng cao sức khoẻ, đó công việc của những nhà tâm . “Tôi nghĩ chúng tôi nên giành nhiều sự quan tâm hơn đến vấn đề này,”.

Kẻ cắp giấc ngủ
Hiện tại, các nghiên cứu về tác động của việc sử dụng điện thoại thông minh lên hành vi chức năng của chúng ta vẫn chưa đi tới những kết luận cụ thể, phần lớn tất cả diễn ra quá nhanh, Karla Kelin Murdock, giáo tâm tại Phòng Thí nghiệm Công nghệ Sức khoẻ tại ĐH Washington Lee cho biết. “Công nghệ thường xuyên thay đổi. Rất khó để định lượng các mặt quan trọng của việc sử dụng điện thoại thông minh khi những khía cạnh định tính vẫn liên tục thay đổi”, cho biết.

Tuy vậy, một số hình đang xuất hiện. Một số các bằng chứng vững vàng được nghiên cứu xung quanh giấc ngủ, “Tôi nghĩ rằng chúng ta một số lượng lớn các nghiên cứu cho rằng không nên sử dụng điện thoại thông minh trước khi đi ngủ”, Murdock cho biết.

đã theo dõi 83 sinh viên đại học trong suốt 1 tuần nhận thấy các sinh viên hay theo dõi các tin báo trên điện thoại thông minh vào giờ ngủ thường tự đánh giá bản thân chất lượng giấc ngủ thấp hay gặp các vấn đề về giấc ngủ (Behavioral Sleep Medicine, 2016).

thường được tả các thiết bị giúp nâng cao hiệu xuất làm việc, việc điện thoại thông minh can thiệp vào giấc ngủ lại gây ra những hiệu ứng trái ngược. TS Russell E. Johnson, giáo quản tại ĐH Bang Michigan, cùng cộng sự đã khảo sát ngừoi lao động thuộc các ngành nghề khác nhau. Các nhà nghiên cứu nhận thấy rằng, khi sử dụng điện thoại di động vào ban đêm để làm việc, các nghiệm thể cho biết thường ngủ tệ hơn khó tập trung làm việc vào ngày hôm sau. Những hệ quả trên sẽ lớn hơn ngừoi sử dụng điện thoại thông minh so với ngừoi sử dụng máy tính hay tablet trước khi đi ngủ (Organizational Behavior and Human Decision Processes, 2014).

Một giải thích khác của việc điện thoại thông minh ảnh hưởng đến giấc ngủ ánh sáng xanh điện thoại thông minh hay các thiết bị điện tử khác phát ra. Ánh sáng đó ảnh hưởng đến việc sản xuất hormone melatonin giúp điều hoà giấc ngủ. Tuy nhiên, laptop tablet cũng ánh sáng tương tự. Điều này cho thấy những yếu tố khác ảnh hưởng đến vấn đề này.

Điện thoại thông minh mang tínhdi độngnhiều hơn cả laptop hay tablet, cũng rất tiện lợi để mang vào giường ngủ, Murdock nhận xét. Trong thực tế, nhiều người sử dụng điện thoại thông minh để báo thức đặt gần tầm với khi đi ngủ. Việc đọc tin nhắn hay email trên giường thể sẽ làm đảo lộn cảm xúc hay khiến bạn phải trăn trở về những thứ bạn cần phải làm. “Đầu óc của bạn sẽ bị kích hoạt trong khi đáng nhẽ đó lúc quan trọng để thư giãn nghỉ ngơi,” nói.

Ngay cả sau khi tắt đèn, cũng rất khó để bạn chống cự lại sức hấp dẫn của chiếc điện thoại. TS K. Adams TS Tiffani Kissler, thuộc ĐH Rhode Island, đã yêu cầu một số sinh viên đại học ghi lại nhật giấc ngủ trong một tuần. Họ phát hiên 40% sinh viên đứng dậy đi lại vào ban đêm để trả lời điện thoại, 47% thức giấc để trả lời tin nhắn. Các sinh viên hay sử dụng điện thoại sau khi đã đi ngủ thường cho biết bản thân giấc ngủ kém, đó cũng yếu tố dự đoán các triệu chứng lo âu trầm cảm (CyberPsychology, Behavior and Social Networking, 2013).

Hiện tượng FOMO
Lo âu điện thoại thông minh thường đi đôi với nhau, TS Larry Rosen, giáo tâm danh dự tại ĐH Bang California State University, cho biết. Ông đã nghiên cứu tâm học về công nghệ hơn 35 năm. Trong một nghiên cứu, ông cùng các đồng nghiệp đã giữ điện thoại của các sinh viên đại học trong một tiếng đồng hồ đo mức độ lo âu của họ vào các thừoi điểm khác nhau.

Mức độ lo âu những người ít sử dụng điện thoại thường không thay đổi, họ cũng thường ngồi yên khi không điện thoại của mình. Những người mức sử dụng trung bình bắt đầu cho thấy các dấu hiệu lo âu tăng dần sau 25 phút, tuy nhiên lượng lo âu vẫn ổn định trong suốt thời gian thực nghiệm còn lại. Những người sử dụng điện thoại thường xuyên cho thấy mức lo âu tăng cao chỉ sau 10 phút không điện thoại. Khác với những người sử dụng trung bình, những người mức cao mức độ lo âu tiếp tục tăng trong suốt 1 tiếng đồng hồ sau đó (Computers in Human Behavior, 2014).

Rosen nhận thấy rằng thanh thiếu niên thường lo âu nếu họ không kiểm tra tin nhắn, mạng hội hay các thiết bị di động thường xuyên. Tuy nhiên, nghiệm thể tất cả các độ tuổi đều mối quan hệ mật thiết với điện thoại. 76% người từ 50-70 tuổi cho biết thường xuyên hay rất thường xuyên kiểm tra hộp thư thoại, 73% thường hay rất thường xuyên kiểm tra tin nhắn (Computers in Human Behavior, 2013).
Tất cả các độ tuổi đều bị ảnh hưởng bởi hiện tượngFOMO”, fear of missing out-sợ bỏ sót, không cập nhật những thông tin trải nghiệm người khác vào bất kỳ thời điểm nhất định nào. Rosen cho biếtChúng ta đã tạo ra một hệ thống trong đó chúng ta cảm thấy bị buộc phải kiểm tra, cập nhật mọi nơi mọi lúc”.

Tuy vậy, việc thường xuyên tiếp xúc với thế giới thuật số không hẳn lành mạnh hay hữu ích. Trong cùng nghiên cứu về tần suất con người kiểm tra điện thoại, Rosen cùng cộng sự đã tìm hiểu mối quan hệ giữa những yếu tố liên quan tới công nghệ một loạt các rối loạn khí sắc nhân cách khác nhau. Một vài mối liên hệ đã được phát hiện. Một số khá tích cực- nhiều bạn trên Facebook cộng với việc thường xuyên trò chuyện trên điện thoại liên hệ với việc ít xuất hiện các triệu chứng trầm cảm. Tuy nhiên, nhiều bằng chứng khá tiêu cực. dụ, việc lo âu do không kiểm tra tin nhắn Facebook giúp dự đoán các triệu chứng trầm cảm nặng (major depression), trầm cảm kéo dài (dysthymia) hưng cảm lưỡng cực (bipolar mania).

Dunn cũng nghiên cứu về tác động của việc một người bị buộc liên tục sử dụng điện thoại của mình. Theo hướng tích cực, nghiên cứu cho thấy thay đổi cách chúng ta tương tác với công nghệ thể giúp cải thiện sức khoẻ.

Trong một nghiên cứu, Dunn cùng cựu nghiên cứu sinh của mình, TS Kostadin Kushlev, đã theo dõi 124 người trưởng thành trong suốt 2 tuần. Trong tuần đầu, nghiệm thể được tự do liên tục kiểm tra email cả ngày. Trong tuần còn lại, họ chỉ được kiểm tra email (cả công việc nhân) ba lần một ngày. Các nghiệm thể cho biết cảm thấy ít căng thẳng hơn trong tuần việc kiểm tra email bị hạn chế. Mức căng thẳng thấp này được liên hệ với những tác động tích cực như trạng thái định tâm tốt hơn, cảm nhận về năng suất làm việc cao hơn chất lượng giấc ngủ tốt hơn (Computers in Human Behavior, 2015).

Trong một nghiên cứu tương tự kéo dài trong hai tuần, Dunn Kushley nghiên cứu về các tín hiệu thông báo của điện thoại thông minh-những tiếng tít tít hay tiếng rung khi tin nhắn, email hay những thông tin cập nhật trên mạng hội. Trong một tuần, các nghiệm thể được yêu cầu giữ điện thoại bên mình bật tin báo. Trong tuần còn lại, các nghiệm thể sẽ tắt tin báo để điện thoại xa tầm với. Vào cuối mỗi tuần, những người tham gia sẽ điền một bảng khảo sát đo đạc khả năng chú ý. Trong tuần bật tin báo, các nghiệm thể cho thấy mức tập trung thấp mức tăng hoạt động cao so với tuần không bật tin báo (Proceedings of the 2016 CHI Conference on Human Factors in Computing Systems, 2016).
Dunn phát hiện, những cảm giác tăng hoạt động kém tập trung trên liên hệ trực tiếp tới hiệu suất làm việc kém, khả năng nối kết hội giảm sức khoẻ tinh thần thấp. “Khả năng chú ý bị phân tán bởi những thứ gây gián đoạn thường xuyên thể gây ra hiệu ứng domino”, chia sẻ.

Những mối liên hệ trong thực tế
Không may, việc tắt thông báo điện thoại không dễ thực hiện như trên thuyết, đặc biệt trong nền văn hoá FOMO hiện nay. Murdock chỉ ra rằng, sau cùng, việc dùng điện thoại cũng mang lại nhiều phần thưởng. Điện thoại được thiết kế nhiều chức năng để khiến bạn cảm thấy hài lòng khi giữ chúng bên mình. Điện thoại đem lại cảm giác an toàn bạn thể tiếp cận bất kỳ thông tin nào bạn cần vào bất kỳ lúc nào. Khi sử dụng điện thoại, bạn thường xuyên sẽ được những thông tin giá trị nối kết với những người bạn quan tâm. “Đó một tiến trình củng cố hành vi mọi cấp độ”, Murdock cho biết.

Các chuyên gia còn quan ngại các yếu tố củng cố hành vi của điện thoại thông minh thể khiến con người quan tâm đến điện thoại của họ nhiều hơn những sự kiện con người quan trọng trong cuộc sống. “Công nghệ trở thành một hiện tượng quá hấp dẫn, việc khiến chúng ta không ngừng bị chi phối không đáng ngạc nhiên chút nào-tuy nhiên, chúng ta đang dần đánh mất thế giới thực tế”, Rosen cho biết. Những tương tác trong thế giới thực cực kỳ quan trọng đối với giống loài hội tính của chúng ta. “Dunn cho biếtCác tương tác thật, trực tiếp liên quan mật thiết đến những ích lợi về cảm xúc”. Trò chuyện qua điện thoại hay truyền hình cũng những mặt tích cực. Nhưng nếu bạn chỉ đơn thuần lướt Facebook thay trò chuyện với người ngồi kế bạn trên một chuyến tàu, hay kiểm tra Instagram thay nói chuyện với vợ chồng vào bữa tối, bạn đang đánh mất những lợi ích của việc tương tác thật sự giữa người người. “Bạn thể đang đánh mất những hội để được các liên kết hội hay lợi ích về cảm xúc đi kèm.”

Đa phần thời gian khi sử dụng các thiết bị di động, chúng ta giành cho mạng hội. Chúng cho phép chúng ta liên kết với người khác thông qua các nền tảng như Facebook hay Twitter. Tuy nhiên, liên kết kỹ thuật số không hoàn toàn giống như liên kết trong đời thực.
TS Ethan Kross, giáo tâm học tại ĐH Michigan, đang nghiên cứu về mạng hội wellbeing. Ông nhận thấy rằng nếu con người sử dụng mạng hội một cách thụ độngchỉ lướt qua những tin mới trên Facebook, đọc những bài đăng của ngừơi khác, tiêu hoá thông tin- họ sẽ mức wellbeing khá thấp. “Khi chúng ta sử dùng Facebook một cách thụ động, chúng ta sẽ cảm thấy càng ngày càng tệ đi”.
Điều này ngược lại so với những người sử dụng chủ động, những người thường xuyên viết đăng tải thông tin, tham gia vào các cuộc đối thoại hay bình luận trên bài đăng của người khác. Việc sử dụng chủ động vẻ không gây nguy hại cho cảm giác hạnh phúc chủ quan, ông cho biết. Tuy vậy, các nghiên cứu hiện tại vẫn đang tranh cãi giữa việc liệu sử dụng chủ động thật sự làm tăng wellbeing hay chỉ đơn thuần một yếu tố trung tính. Kross đã tả điều này trong một bài tường thuật khác (Social Issues and Policy Review, in press).
Theo Kross, khác biệt nằm chỗ việc đơn thuần chỉ tiêu thụ thông tin trên mạng hội sẽ khiến cho chúng ta xu hướng so sánh, hành động dẫn tới cảm giác đố kỵ. Tham gia chủ động vào mạng hội, mặt khác, vẻ làm tăng cảm giác nối kết hội.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa mạng hội wellbeing về cảm xúc rất phức tạp. Chúng không phải lúc nào cũng nằm gọn ghẽ trong các hành vi ngoài đời thực.
dụ, Kross cho biết, nghiên cứu cho thấy những người trầm cảm thường ít nhận được sự hỗ trợ từ các mạng lưới hội thực tế, họ cũng thường hay nhìn nhận rất chính xác rằng bản thân đang thiếu vắng sự trợ giúp. Tuy nhiên ông cùng TS Jiyoung Park thuộc ĐH Massachusettes các cộng sự đã chứng minh rằng trong thế giới ảo, những ngừoi trầm cảm thường nhận được sự hỗ trợ từ bạn trên Facebook nhiều hơn những người không trầm cảm. Tuy nhiên, họ lại hay tin rằng mình ít nhận được sự trợ giúp từ những mối quan hệ trên mạng hơn các mối quan hệ ngoài đời (Journal of Affective Disorders, 2016).
Phát hiện này tạo sở cho các can thiệp thể giúp thân chủ tranh thủ những hỗ trợ khả trên mạng hội, Kross nhận định. “Tôi lạc quan tin rằng các mạng hội thể được tận dụng để làm tăng wellbeing.”

Giành lại quyền kiểm soát
Như vậy, sử dụng điện thoại thông minh chưa chắc tiêu cực hoàn toàn. Điện thoại thông minh thể làm tăng cảm giác thuộc về gần gũi với bạn. dụ, TS Kate Magsamen-Conrad tại ĐH Bowling Green State University cùng các cộng sự nhận thấy trong số những người xu hướng giữ kín cuộc sống riêng thông tin nhân, công nghệ thể giúp họ thúc đẩy các mối quan hệ liên nhân làm tăng mức wellbeing tổng thể. (Computers in Human Behavior, 2014).
Tuy nhiên, trong công nghệ, cũng như nhiều thứ khác, sử dụng điều độ rất quan trọng. “Quan trọng tranh thủ những lợi ích tối ưu từ công nghệ nhưng đồng thời đảm bảo rằng không kiểm soát bạn”, Rosen cho biết. “Đã đến lúc chúng ta giành lại quyền kiểm soát”.

Quyền kiểm soát đến từ nhiều phía khác nhau. Chúng ta thể bắt đầu từng bước nhỏ để giảm thiểu những tác hại của việc sử dụng điện thoại thông minh (Xem "Seven ways to overhaul your smartphone use.") Đồng thời, các nhà tâm cũng thể đóng vai trò quan trọng, bằng việc nghiên cứu cũng như đem lại những hỗ trợ chuyên môn cho các thân chủ khó khăn trong việc ngắt kết nối với điện thoại. […]

Dunn cũng hi vọng rằng các nhà phát triển công nghệ cũng thể các tiếp cận hỗ trợ sự chủ động cho ngừoi sử dụng, dụ như tạo ra các chương trình giúp việc kiểm soát các loại tin báo thời gian xuất hiện tin báo trở nên dễ dàng hơn. còn nghĩ đến các cảm biến giúp xác định thời gian một người đang ăn tối hay chơi đùa với con cái, từ đó ngăn các tin báo về những cập nhật mới trên mạng hội hay các thông tin không phù hợp vào thừoi điểm trên. “Chúng ta không tiến hoá để bị các tin báo nhồi nhét liên tục. Với điện thoại thông minh, chúng ta đã thay đổi tất cả cách thức chúng ta thực hiện mọi việc suốt tám năm qua”, Dunn chia sẻ.
Tâm học thể giúp cải thiện công nghệ, nhận xétcác công ty công nghệ đã bắt đầu gửi những nhà đại diện đến dự các hội thảo về tâm để học hỏi từ các nghiên cứu. “Các doanh nghiệp đang lắng nghe chúng ta cần lên tiếng."

Further reading
Do Online Social Network Sites Make Us Happy? A Critical Review
Verduyn, P., Ybarra, O., Jonides, J., & Kross, ESocial Issues and Policy Review, in press
The Distracted Mind: Ancient Brains in a High-Tech World
Gazzaley, A., & Rosen, L.D. MIT Press, 2016
Is Facebook Creating "iDisorders"? The Link Between Clinical Symptoms of Psychiatric Disorders and Technology Use, Attitudes and Anxiety
Rosen, L.D., Whaling, K., Rab, S., Carrier, L.M., & Cheever, N.A. Computers in Human Behavior, 2013

Dịch: Hành Lang Tâm

Các bài khác liên quan đến công nghệ di động trên Hành Lang Tâm

CHỤP HÌNH QUÁ NHIỀU ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO ĐẾN ỨC CỦA CHÚNG TA?

INTERNET ẢNH HƯỞNG NHƯ THẾ NÀO TỚI TRI NHỚ CỦA CHÚNG TA?

ĐIỆN THOẠI THÔNG MINH KHIẾN CHÚNG TA TRỞ THÀNH NHỮNG NGƯỜI LƯỜI SUY NGHĨ?


TÂM HỌC VỀ FACEBOOK


NGHỈ GIỮA GIỜ VỚI SMARTPHONE LÀM TĂNG HẠNH PHÚC CHO NHÂN VIÊN


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẤN VÀO LINK "BÀI ĐĂNG CŨ HƠN" Ở TRÊN ĐỂ XEM TIẾP CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG!!! é

Popular Posts

Flickr Images

Flag Counter