Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2014

ĐÀN ÔNG VÀ PHỤ NỮ, AI QUÝ TRỌNG MÔI QUAN HỆ HƠN?


 

Chúng ta thường gặp phải những ý nghĩ đóng khung rằng đàn ông thường sợ hãi cam kết trong tình cảm – rằng phụ nữ thì khao khát hôn nhân còn đàn ông thì gặp khó khăn trong việc từ bỏ tự do của đời độc thân. Hình ảnh này xuất hiện liên tục trong văn hóa đời sống. Trang web “tìm bạn” eHarmony thậm chí còn đưa ra lời khuyên giúp phụ nữ xử lý những quý ông tránh né cam kết (eHarmony 2012).
Nhưng có bao nhiêu phần trăm sự thật trong những suy nghĩ này?

Có lẽ là chẳng có. Mâu thuẫn rõ ràng với suy nghĩ đóng khung rằng đàn ông là những “tay chơi” sợ hãi cam kết, Pew Research cho rằng nam nữ thanh niên có mức độ mong muốn đi tới hôn nhân như nhau (Pew 2013); cả hai cùng cho rằng hôn nhân thành công là một trong những điều quan trọng nhất trong đời (Pew 2012); và tình yêu là lý do chính yếu dẫn đến hôn nhân (Pew 2013). 

Những thông tin trên được củng cố bởi những phân tích của bản thân tôi trên Nghiên cứu Chiều dài Quốc Gia về Sức Khỏe Vị Thành niên (Add Health) đợt thứ 3, đây là một khảo sát lớn mang tính quốc gia trên 15000 bạn trẻ cả nam và nữ (độ tuổi trung bình là 22). Tôi nhận thấy 82% đàn ông và 84% phụ nữ cho rằng hôn nhân vào một ngày không xa là “rất” hay “khá” quan trọng đối với họ. Bên cạnh đó, hai giới khác nhau chút ít khi đề cập đến việc cam kết trong mối quan hệ. Trong những người đang có mối quan hệ lãng mạn, 83% đàn ông và 88% phụ nữ cho biết họ “hoàn toàn” hay “rất” cam kết với người bạn của mình. Tương tự, 51% nam và 57% nữ “gần như chắc chắn” rằng mối quan hệ hiện tại của mình sẽ kéo dài vĩnh viễn. Thậm chí với độ tuổi đâu 20, khá lâu trước độ tuổi kết hôn trung bình, đàn ông (và cả phụ nữ) vẫn cho thấy mức độ cam kết cao và thường dự đoán một cuộc sống hợp nhất lâu dài.

Ngay cả trong nhóm ít cam kết nhất, đàn ông cũng không áp đảo phụ nữ là bao - chỉ có 5% đàn ông và 3% phụ nữ lựa chọn “không hề” cam kết với người yêu hiện tại, trong khi 5% nam và 4% nữ cho rằng “gần như không có cơ hội” để mối quan hệ đang có trở thành lâu dài.

Trong dữ liệu cùa Add Health, giữa nam và nữ thanh niên có tồn tại những khác biệt về giới. Tuy nhiên, chúng không thể hiện một khoảng cách không thể san bằng giữa lộ trình tình cảm mà cả hai mong muốn. Ví dụ, tôi nhận thấy phụ nữ trẻ thường nói rằng họ mong cưới ngay lập tức – thật thế, 31% phụ nữ và 20% nam trong Add Health đợt III muốn được làm đám cưới ngay tại thời điểm phỏng vấn. Mặc dù trung bình, phụ nữ có thể khao khát lập gia đình sớm hơn, thế nhưng điều này không có nghĩa là thời gian mong muốn đi tới hôn nhân của cả hai tồn tại mâu thuẫn – một phần lý do là vì phụ nữ có xu hướng quen đàn ông lớn tuổi hơn một chút (khoảng 2 năm) (Pew 2011). 

Còn suy nghĩ cho rằng đàn ông thường bỏ vợ hơn thì sao? Thật ra, phụ nữ mới là người thường khơi mào chuyện li dị (Kalmijn and Poortman 2006). Hơn nữa, cũng có rất ít khác biệt trong việc nam hay nữ đi ngoại tình dẫn đến chia tay (England, Allison, and Sayer 2014). Mà hơn thế, đàn ông mới là người phải mong đi tới hôn nhân và sống chung thủy nhiều hơn phụ nữ - sức khỏe, hạnh phúc, tuổi thọ của quý ông phụ thuộc vào điều này (Harvard Health Publications 2010). Vượt mặt các đức lang quân, các bà vợ là người động viên những hành vi lành mạnh nơi người bạn của mình nhiều hơn (Reczek and Umberson 2012), và dù cho đã cưới nhau hay chỉ mới chung sống theo nhiều kiểu, điều này đồng thời liên hệ với tình trạng sức khỏe tốt hơn nơi phụ nữ (Wu et al. 2003). 

Dữ liệu cho thấy cam kết, tình yêu và hôn nhân đều được cả nam lẫn nữ ao ước mãnh liệt và mang lại lợi ích cho cả hai. “Cuộc chiến” trong việc nhẽ ra đàn ông phải sợ cam kết đơn thuần là không rõ ràng. Không cần nghi ngờ gì nhiều, tất nhiên là có vài bạn nam thật sự sợ hãi hoặc né tránh cam kết – nhưng một số bạn nữ cũng thế.

Vậy tại sao suy nghĩ về nỗi ám sợ cam kết ở nam giới lại phổ biến đến thế?
Ở mức độ nào đó, điều này được thúc đẩy bởi tiêu chuẩn kép về tính dục, để cân bằng hành vi, nó sẽ ủng hộ các biểu lộ tình dục ở nam trong khi lại trừng phạt điều đó ở nữ. Ngoài ra, những người hay lo sợ thường cảnh báo phụ nữ về những khó khăn trong việc “giữ” chồng và những mối nguy hiểm khi tập trung vào học hành hay sự nghiệp (ví dụ, Susan Patton 2013). Một cách vô tình hay cố ý, nó hoạt động như một cơ chế kiểm soát phản ứng xã hội, chuyển hướng năng lượng của phụ nữ tránh xa những thành tựu công cộng và quay trở về với gia đình. Đây là lúc chúng ta phải xóa bỏ những định kiến sai lầm (và phân biệt giới tính), đồng thời ủng hộ cả đàn ông và phụ nữ tìm kiếm thành công và hạnh phúc trong mọi phương diện cuộc sống – bao gồm cả nghề nghiệp, tình cảm và gia đình.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
EHarmony, 2012. “Why men avoid commitment.”  http://www.eharmony.com.au/relationship-advice/dating/2012/04/why-men-avoid-commitment
England, Paula, Paul D. Allison, and Liana C. Sayer. 2014. "When one spouse has an affair, who is more likely to leave?" Demographic Research 30:535-546. 
Harvard Health Publications. 2010. “Marriage and Men’s Health.” http://www.health.harvard.edu/newsletters/Harvard_Mens_Health_Watch/2010/July/marriage-and-mens-health 
Kalmijn, Matthijs and Anne-Rigt Poortman. 2006. "His or Her Divorce? The Gendered Nature of Divorce and its Determinants." European Sociological Review 22(2):201-214.
Patton, Susan. 2013. “Letter to the Editor: Advice for the young women of Princeton: the daughters I never had.” http://dailyprincetonian.com/opinion/2013/03/letter-to-the-editor-advice-for-the-young-women-of-princeton-the-daughters-i-never-had/ 
Pew Research. 2011. “Barely Half of U.S. Adults Are Married – A Record Low.”http://www.pewsocialtrends.org/2011/12/14/barely-half-of-u-s-adults-are-married-a-record-low/
Pew Research. 2011. “For Millennials, Parenthood Trumps Marriage."http://www.pewsocialtrends.org/2011/03/09/for-millennials-parenthood-trumps-marriage/
Pew Research. 2012. “A Gender Reversal On Career Aspirations.”http://www.pewsocialtrends.org/2012/04/19/a-gender-reversal-on-career-aspirations/
Pew Research. 2013. “Love and Marriage.” http://www.pewsocialtrends.org/2013/02/13/love-and-marriage/
Reczek, Corinne and Debra Umberson. 2012. "Gender, health behavior, and intimate relationships: Lesbian, gay, and straight contexts." Social Science and Medicine 74(11):1783-1790.
Wu, Z, MJ Penning, MS Pollard, and R Hart. 2003. ""In sickness and in health" - Does cohabitation count?" Journal of Family Issues 24(6):811-838.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

NHẤN VÀO LINK "BÀI ĐĂNG CŨ HƠN" Ở TRÊN ĐỂ XEM TIẾP CÁC BÀI ĐÃ ĐĂNG!!! é

Bài đã đăng

Popular Posts

Flickr Images

Flag Counter